Vay tín chấp là một hình thức cho vay không cần thế chấp tài sản mà dựa vào uy tín của khách hàng để cho vay, thể hiện qua mức lương, thẻ tín dụng và bảo hiểm nhân thọ. Hợp đồng vay giữa bên cho vay và bên vay là đồng ý và hoàn toàn tự nguyện. Tổ chức tín dụng ngoài ngân hàng thương mại muốn cho vay phải có vốn điều lệ tối thiểu 300 tỷ đồng và chịu sự quản lý của ngân hàng nhà nước.
Lãi suất vay là yếu tố quan trọng hàng đầu
Điều mà nhiều người quan tâm nhất khi muốn vay tiền tại các ngân hàng (NH) là lãi suất (LS) cho vay bao nhiêu? Thông thường, LS cho vay tín chấp sẽ cao hơn nhiều so với LS cho vay có tài sản thế chấp, bởi rủi ro từ vay tín chấp cao hơn vay thế chấp. Hiện nay trên thị trường, các ngân hàng thường áp dụng hai cách tính lãi suất: tính lãi suất trên dư nợ thực tế hoặc tính lãi suất trên dư nợ ban đầu. Trên cơ sở hai cách tính lãi này, lãi suất thực tế sẽ chênh lệch nhau khá nhiều.
Ví dụ, ngân hàng A áp dụng lãi suất là 13% một năm với cách tính là trên dư nợ ban đầu. Khách hàng vay 30 triệu trong 18 tháng, tính ra mỗi tháng sẽ phải trả gốc là 1.666.667 đồng và lãi là 325.000 đồng. Tổng lãi phải trả trong 12 tháng là 5.850.000 đồng.
Trong khi đó, Ngân hàng B áp dụng lãi suất 18% một tháng với cách tính là trên dư nợ thực tế giảm dần. Khách hàng vay 30 triệu trong 18 tháng. Với cách xác định gốc và lãi phải trả theo niên kim, tức là trả nợ gốc và lãi cố định hàng tháng thì tổng lãi phải trả của khách hàng là 4.097.447 đồng.
Như vậy thoạt nhìn lãi suất của hai ngân hàng có sự chênh lệch đáng kể và lãi suất theo cách tính dư nợ ban đầu có vẻ hấp dẫn hơn so với cách tính dư nợ thực tế, tuy nhiên với cách tính lãi suất như vậy thì trên thực tế tổng lãi phải trả của trường hợp trả theo dư nợ ban đầu sẽ lớn hơn đáng kể so với trả lãi theo dự nợ thực tế.
Nếu nhìn lại trên thị trường, hầu hết các ngân hàng áp dụng cách tính lãi suất trên dư nợ ban đầu, dẫn đến lãi suất chênh lệch tương đối lớn. Một số ngân hàng áp dụng các tính trên dư nợ ban đầu thì lãi suất chỉ khoảng dưới 1% một tháng (khoảng từ 0,7% - 1%), các ngân hàng áp dụng cách tính trên dư nợ thực tế giảm dần thì lãi suất thường khoảng trên 1%. Với mức lãi suất công bố như vậy thì đương nhiên hầu hết khách hàng sẽ chọn ngân hàng có lãi suất thấp hơn. Tất nhiên, lãi suất thực tế mà khách hàng phải trả ở cả hai trường hợp này là như nhau, thậm chí lãi suất thực tế của trường hợp dư nợ gốc sẽ nhỉnh hơn so với dư nơ thực tế như ta thấy ở trường hợp trên.
Đọc kỹ hợp đồng
Điều kiện cho vay vốn hiện nay thông thoáng hơn với nhiều ưu đãi hấp dẫn, nhưng vẫn có những điều kiện ràng buộc nhất định. Do vậy, người vay nên đọc kỹ hợp đồng. Bạn cần chú ý đến những điều khoản, đặc biệt thời hạn thay đổi lãi suất. Khách hàng phải yêu cầu chuyên viên quan hệ khách hàng tư vấn thật kỹ, nếu theo các điều khoản trong hợp đồng, lãi suất sẽ lên tới bao nhiêu. Như vậy, ngân hàng và khách hàng xây dựng được mối quan hệ lâu dài, đồng thời cũng tránh rủi ro tiềm ẩn cho 2 bên.
Hiện nay, việc vay tín chấp không quá khó. Điều kiện cho vay của các NH thường là cán bộ công nhân viên có lãnh lương hằng tháng từ 6 triệu đồng/tháng trở lên; có hợp đồng lao động và làm việc từ 18 tháng tại doanh nghiệp hiện tại. Khi nộp hồ sơ phải kèm theo bản sao hợp đồng lao động, bản sao kê tài khoản lương ở NH trong vòng 3 tháng liền kề mới nhất (hoặc phải có giấy xác nhận lương của doanh nghiệp)…
Theo quy định chung, mức phí trả nợ trễ hạn của các NH đều tính bằng 150% LS vay vốn/khoản tiền trả chậm. Riêng mức phí trả trước hạn thông thường từ 2 - 3%/số tiền nợ gốc còn lại. Tuy nhiên, cũng có một số NH không thu phí khi người vay muốn trả nợ trước hạn. Điều này giúp người vay tín chấp không mất một số tiền đáng kể nếu vay một khoản tiền lớn mà sau khi vay có điều kiện để trả trước hạn. Ví dụ, với khoản vay 200 triệu đồng trong 24 tháng nhưng chỉ sau 12 tháng, bạn đã tích lũy đủ và muốn trả hết số nợ gốc 100 triệu đồng còn lại, nếu NH thu phí 3%/số tiền nợ gốc thì bạn phải trả thêm phí là 3 triệu đồng…
Thế Anh (Tổng hợp)