Theo chuyên gia kinh tế Phạm
Nam Kim, con số nợ xấu mới được công bố 9,71% của hệ thống ngân hàng là rất
cao. Tuy nhiên, đây chỉ là con số bình quân của toàn hệ thống, nếu tính từng
ngân hàng thì sẽ có ngân hàng có nợ xấu cao hơn con số bình quân. Những ngân
hàng này mới thực sự đáng lo ngại.
Với mức nợ xấu như vậy, các
ngân hàng không dám cho DN vay tiền, kể cả với những DN đang kinh doanh tốt. Điều
này dẫn đến thực trạng doanh nghiệp không tiếp cận được nguồn vốn, thiếu vốn
cho SXKD, dẫn đến phá sản, giải thể và nợ tốt hiện tại lại chuyển thành nợ xấu
và tỷ lệ nợ xấu theo đó lại tăng lên theo.
Và nếu tình trạng này còn tiếp
tục kéo dài, tỷ lệ nợ xấu lên cao dẫn đến nguy cơ phá sản của một vài ngân hàng
và từng bước de dọa cả hệ thống ngân hàng. Doanh nghiệp không vay được vốn, dẫn
đến giải thể phá sản, ngân hàng tỷ lệ nợ xấu cao hoặc sáp nhập, hoặc giải thể sẽ
làm cho toàn bộ nền kinh tế quốc gia tiếp tục trì trệ.
Một trong những nguyên nhân
sâu xa của nợ xấu cao là do tổng cầu của toàn nền kinh tế đang suy giảm, số lượng
doanh nghiệp phá sản nhiều và hoạt động sản xuất kinh doanh của cả nền kinh tế
bị đình trệ. Bởi vậy, để giải quyết nợ xấu, trước tiên vẫn phải tìm cách khôi
phục hoạt động sản xuất kinh doanh, làm khơi thông trở lại dòng tiền của các
doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết, có hai cách để giúp các ngân hàng loại bỏ nợ xấu
khỏi bảng cân đối kế toán, một là bán nợ cho VAMC (Công ty Quản lý tài sản của
các tổ chức tín dụng Việt Nam), hai là thu đòi nợ, thanh lý tài sản đảm bảo.
Đối với cách thứ hai, trong
bối cảnh tiến trình xử lý, thanh lý tài sản đảm bảo vẫn vướng víu nhiều vấn đề
về pháp lý như hiện nay, rất khó để các ngân hàng đòi được nợ. Trong khi đó, VAMC
lại không thể xử lý nợ xấu ngay được và về bản chất vẫn chỉ là hạch toán, không
phải xử lý bằng nguồn tài chính thực để có tác động vào nền kinh tế.
Cũng theo chuyên gia kinh tế
Phạm Nam Kim, nên nghiên cứu thêm phương án tìm kiếm vốn trên thị trường quốc tế
để tài trợ hệ thống ngân hàng. Việc này đồng nghĩa với nợ công sẽ tăng, nhưng
bù lại sẽ có vốn cho sự hồi phục sớm của toàn hệ thống ngân hàng nhằm trang trải
dần cho khoản nợ công này. Và khi hệ thống ngân hàng hồi phục, doanh nghiệp sẽ
có thể tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn tạo đà cho sự phát triển trở lại của toàn
nền kinh tế.
Phó Chủ tịch thường trực
HĐTV VAMC Nguyễn Quốc Hùng cũng để cập đến việc mua nợ xấu của các nhà đầu tư
(NĐT) ngoại như Dragon Capital, Holding Capital, SAM. Theo ông Hùng, nếu các
NĐT ngoại mua được nợ xấu sẽ có một lượng vốn khổng lồ và điều này rất có ý
nghĩa với Việt Nam. Tuy nhiên, theo ông Hùng, việc bán nợ cho NĐT ngoại tại thời
điểm hiện nay là rất khó. Bởi vì muốn bán nợ cho NĐT ngoại phải kèm theo các cơ
chế, chính sách đồng bộ liên quan đến đối tượng khách hàng này. Cụ thể, đó là tỷ
lệ sở hữu nước ngoài đối với ngân hàng nội, cũng như DN như thế nào; quyền sở hữu
bất động sản của NĐT ngoại ra sao; hay việc họ chuyển vốn ra nước ngoài; quy định
về chính sách thuế đối với họ như thế nào.
Anh Đức (Tổng hợp)