Không sử dụng nhà, đất là tài sản công vào mục đích ở
Chính phủ ban hành Nghị định số 108/2024/NĐ-CP quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác nhà, đất là tài sản công không sử dụng vào mục đích để ở giao cho tổ chức có chức năng quản lý, kinh doanh nhà địa phương quản lý, khai thác. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2024.
Nghị định này quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất là tài sản công không sử dụng vào mục đích để ở (sau đây gọi là nhà, đất) giao cho tổ chức có chức năng quản lý, kinh doanh nhà địa phương quản lý, khai thác với mục đích: Cho thuê nhà (gắn với quyền sử dụng đất); Tạm quản lý trong thời gian chờ thực hiện xử lý nhà, đất theo quy định của pháp luật.
Việc giao nhà, đất cho tổ chức quản lý, kinh doanh nhà quản lý, khai thác được thực hiện theo hình thức ghi tăng tài sản và giá trị tài sản không tính thành phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Tổ chức quản lý, kinh doanh nhà; tổ chức, cá nhân thuê nhà; cơ quan, tổ chức, đơn vị được bố trí nhà, đất sử dụng tạm thời thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo quy định.
Việc quản lý, sử dụng và khai thác nhà, đất phải được giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán theo quy định của pháp luật; mọi hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng và khai thác nhà, đất phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Theo quy định, việc cho thuê nhà (gắn với quyền sử dụng đất) của tổ chức quản lý, kinh doanh nhà được thực hiện theo phương thức đấu giá, trừ các trường hợp thực hiện theo phương thức niêm yết giá.
Sửa đổi một số quy định mới về quản lý, sử dụng tài sản công
Chính phủ ban hành Nghị định số 114/2024/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 30/10/2024. Các Điều 96, 97, 98 và 99 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2025.
Theo quy định mới, thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định mua sắm tài sản công trong trường hợp phải lập thành dự án được thực hiện theo quy định của pháp luật khác có liên quan.
Thẩm quyền quyết định mua sắm tài sản công trong trường hợp không thuộc phạm vi quy định trên được thực hiện như sau:
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương (Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan trung ương) quy định thẩm quyền quyết định mua sắm tài sản công phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước thuộc phạm vi quản lý của bộ, cơ quan trung ương.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định thẩm quyền quyết định mua sắm tài sản công phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước thuộc phạm vi quản lý của địa phương.
Nghị định số 114/2024/NĐ-CP quy định căn cứ phạm vi dự toán ngân sách được giao và nguồn kinh phí được phép sử dụng, cơ quan nhà nước tổ chức thực hiện mua sắm tài sản theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
Việc tổ chức thực hiện mua sắm tài sản theo phương thức tập trung được thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu thầu và quy định tại Chương VI Nghị định này.
Việc mua sắm tài sản quy định trên không bao gồm mua sắm dịch vụ phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước. Việc mua sắm dịch vụ phục vụ hoạt động của cơ quan nhà nước được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Quy định mới về đánh số nhà
Thông tư 08/2024 của Bộ Xây dựng quy định việc đánh số, gắn biển số nhà, công trình xây dựng có hiệu lực từ ngày 15/10. Văn bản này thay thế Quyết định 05/2006 được thực hiện trong 18 năm qua.
Cụ thể, nhà mặt đường, phố được đánh số theo thứ tự tăng dần (1, 2, 3...), bắt đầu từ số 1. Nhà bên trái đường mang số lẻ, nhà bên phải mang số chẵn. Chiều đánh số thường từ Bắc xuống Nam hoặc từ Đông sang Tây.
Với nhà có hai mặt tiền thì ưu tiên đánh số theo mặt tiền đường rộng hơn. Nếu hai mặt tiền ngang bằng sẽ căn cứ vào vị trí cửa chính hoặc số nhà đã có trên đường đó để quyết định. Đối với đường, phố chưa có nhà, UBND cấp huyện sẽ lập danh sách số nhà dự phòng dựa trên quy hoạch chi tiết, đảm bảo việc đánh số được thực hiện một cách khoa học và thống nhất.
Nguyên tắc chèn số nhà với nhà xây mới xen giữa hai nhà hiện hữu là thêm chữ cái in hoa hoặc số tự nhiên vào số nhà bên cạnh nhỏ hơn. Ví dụ, nhà phát sinh giữa hai nhà 20 và 22 sẽ được đánh số 20A, 20B, 20C hoặc 20-1, 20-2, 20-3. Với nhà trong ngõ chưa có tên riêng, nguyên tắc đặt tên theo số nhà mặt đường, phố nằm kề ngay trước ngõ (theo số nhà nhỏ hơn).
Báo cáo về cụm công nghiệp 2 lần 1 năm
Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 14/2024/TT-BCT ngày 15/8/2024 quy định chế độ báo cáo định kỳ về cụm công nghiệp, cơ sở dữ liệu cụm công nghiệp cả nước và một số mẫu văn bản về quản lý, phát triển cụm công nghiệp. Thông tư có hiệu lực thi hành từ 1/10/2024.
Đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp; các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh trong cụm công nghiệp; các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến quản lý, đầu tư và hoạt động của cụm công nghiệp.
Theo Thông tư quy định, đối tượng thực hiện chế độ báo cáo là Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Sở Công Thương); UBND cấp huyện; chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp; các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh trong cụm công nghiệp.
Thời gian chốt số liệu báo cáo 6 tháng (đầu năm) được tính từ ngày 15 tháng 12 năm trước kỳ báo cáo đến ngày 14 tháng 6 của kỳ báo cáo.
Thời gian chốt số liệu báo cáo hằng năm được tính từ ngày 15 tháng 12 năm trước kỳ báo cáo đến ngày 14 tháng 12 của kỳ báo cáo.
Định kỳ trước ngày 20 tháng 6 và trước ngày 20 tháng 12 hằng năm, các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh trong cụm công nghiệp báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư trong cụm công nghiệp trong 6 tháng và cả năm gửi cơ quan thống kê cấp huyện, đồng thời gửi UBND cấp huyện.
Định kỳ trước ngày 20 tháng 6 và trước ngày 20 tháng 12 hằng năm, chủ đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp báo cáo tình hình hoạt động của dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp trong 6 tháng và cả năm gửi cơ quan thống kê cấp huyện, đồng thời gửi UBND cấp huyện và Sở Công Thương.
Định kỳ trước ngày 25 tháng 6 và trước ngày 25 tháng 12 hằng năm, UBND cấp huyện báo cáo tình hình cụm công nghiệp trên địa bàn trong 6 tháng và cả năm gửi UBND cấp tỉnh và Sở Công Thương.
Định kỳ trước ngày 30 tháng 6 và trước ngày 31 tháng 12 hằng năm, Sở Công Thương báo cáo tình hình cụm công nghiệp trên địa bàn cấp tỉnh trong 6 tháng và cả năm gửi UBND cấp tỉnh và Bộ Công Thương (Cục Công Thương địa phương).
Thông tư nêu rõ, báo cáo định kỳ được thể hiện dưới hình thức văn bản giấy hoặc văn bản điện tử, được gửi đến cơ quan nhận báo cáo bằng một trong các phương thức sau: gửi trực tiếp, gửi qua dịch vụ bưu chính, gửi qua trục liên thông văn bản quốc gia, thư điện tử hoặc phương thức khác theo quy định của pháp luật.
Trường hợp Cơ sở dữ liệu cụm công nghiệp cả nước đã được xây dựng và vận hành thì Sở Công Thương gửi báo cáo định kỳ tới Bộ Công Thương (Cục Công Thương địa phương) thông qua cập nhật dữ liệu, gửi báo cáo tại Cơ sở dữ liệu cụm công nghiệp cả nước.
Cao tốc phải có tối thiểu 4 làn xe
Theo Thông tư 06/2024 về Quy chuẩn kỹ thuật đường bộ cao tốc, hiệu lực từ 1/10, Bộ Giao thông Vận tải quy định cao tốc phải có tối thiểu 4 làn xe chạy (hai làn xe mỗi chiều); phải có làn dừng khẩn cấp được bố trí liên tục, trừ vị trí qua cầu có khẩu độ nhịp từ 150 m trở lên hoặc cầu có trụ cao từ 50 m trở lên, qua hầm.
Cao tốc có 3 cấp thiết kế theo tốc độ tối đa, gồm 120, 100 và 80. Các khu vực địa hình khó khăn, liên quan yếu tố quốc phòng an ninh có thể áp dụng tốc độ thiết kế 60 km/h. Làn xe rộng tối thiểu 3,75 m đối với đường cấp 120, cấp 100 và tối thiểu 3,5 m đối với đường cấp 80. Làn dừng khẩn cấp rộng tối thiểu 3 m với cấp 120 và 100; cấp 80 là 2,5 m.
Trước đó, cao tốc được xây dựng theo tiêu chuẩn TCVN 5729:2012, khuyến cáo số làn xe được xác định trên cơ sở tính toán năng lực thông hành. Trường hợp phương án phân kỳ đầu tư, cao tốc phải làm thiết kế tổng thể hoàn chỉnh cho tương lai để tạo thuận lợi cho việc xây dựng ở giai đoạn sau.
Nhiều tuyến cao tốc tại Việt Nam, như Cam Lộ - La Sơn, La Sơn - Hòa Liên, Yên Bái - Lào Cai, Hòa Lạc - Hòa Bình, Thái Nguyên - Chợ Mới, Tuyên Quang - Hà Giang và Đồng Đăng - Trà Lĩnh, ban đầu được đầu tư với quy mô hai làn xe. Điều này đã gây ra nhiều hạn chế về lưu lượng và an toàn giao thông. Để khắc phục tình trạng trên, Thủ tướng đã yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải nhanh chóng rà soát và nâng cấp các tuyến đường này lên 4 làn xe.
Trạm dừng nghỉ phải có trụ sạc xe điện
Theo Thông tư 09/2024 của Bộ Giao thông Vận tải về quy chuẩn kỹ thuật trạm dừng nghỉ trên cao tốc có hiệu lực từ 5/10, trạm dừng nghỉ trên cao tốc được phân thành 4 loại. Trạm loại 1 có diện tích lớn nhất, từ 10.000 m2 trở lên, trong đó bãi đỗ xe chiếm khoảng một nửa. Các loại trạm còn lại có diện tích giảm dần, lần lượt là 5.000 m2, 3.000 m2 và 1.000 m2.
Theo quy định mới, trạm dừng nghỉ loại 1 và 2 bắt buộc phải dành 10% diện tích đỗ xe cho xe điện, trong khi loại 3 và 4 được khuyến khích thực hiện. Việc lắp đặt cụ thể các trụ sạc sẽ dựa trên nhu cầu thực tế tại từng địa điểm.
Với những trạm dừng nghỉ đã đưa vào khai thác trước ngày Thông tư có hiệu lực, chủ sở hữu phải hoàn thành việc sửa chữa, nâng cấp các hạng mục, bao gồm trạm sạc và khu vực đỗ cho xe điện theo quy chuẩn trước ngày 1/1/2027.