Khi nền kinh tế thứ 2 thế giới giảm tốc, các nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương cũng phải tìm cách để giảm thiểu sự ảnh hưởng. Dưới đây là những cách mà các nhà xuất khẩu châu Á đang áp dụng, theo CNBC.
Kinh tế Trung Quốc đang giảm tốc
Đông Nam Á
Các nhà xuất khẩu hàng hóa lớn như Indonesia và Thái Lan đã bị ảnh hưởng nhiều bởi sự sụt giảm của giá khoáng sản, dầu dừa và cao su. Những mặt hàng này chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu của Indonesia, 10% kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan và là những mặt hàng chính được Trung Quốc nhập khẩu.
Indonesia và Thái Lan đang cố gắng chuyển đổi công năng của nguồn cung cấp dồi dào thông qua việc xây dựng cơ sở hạ tầng như đường bộ và đường sắt. Những thành công đã tới phần nào với 2 quốc gia này khi mua sắm nhà ở tại Indonesia đã tăng trưởng 4,9% trong quý IV/2015 và tính cả năm là 4,8%.
Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu nội địa phi dầu mỏ của Singapore trong tháng 2 đã giảm 4,1% so với tháng 1. Tuy nhiên, con số này vẫn tăng trưởng 2,1% so với cùng kỳ năm 2015 và thấp hơn mức giảm 10,1% trong tháng 1.
Thống kê của chính phủ nước này cho biết mức độ sa thải nhân viên năm 2015 đã đạt mức cao nhất kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, nhấn mạnh những tác động bất lợi của giá dầu thấp tới quốc gia này.
Tuần trước, chính phủ Singapore đã công bố ngân sách cho năm tài chính 2016 là 53 tỷ USD, tăng 7,3% so với ngân sách năm trước nhờ có nhiều quỹ đứng ra hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các biện pháp giảm thuế thu nhập.
Hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đa phần là nông sản và nguyên liệu khoáng sản, tương tự với trường hợp của Thái Lan. Đây là một bất lợi lớn đối với hàng hóa của Việt Nam, nhất là mặt hàng nông sản bởi sẽ khó để chuyển dịch thị trường. Do đó sẽ tác động tiêu cực tới ngành nông nghiệp và thu nhập của nhà nông.
Nhật Bản
Việc Trung Quốc giảm nhập khẩu từ Nhật Bản không chỉ làm kinh tế nước này tăng trưởng âm 1,1% trong quý bốn năm 2015, mà còn làm xói mòn niềm tin vào Abenomics, chính sách kích thích kinh tế được khởi xướng bởi thủ tướng Shinzo Abe.
Những tín hiệu tích cực như gia nhập Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và cải cách khu vực doanh nghiệp cho thấy Nhật Bản đang đi đúng hướng nhưng cần có thời gian để những chính sách này đem lại kết quả.
Ngoài ra, chính phủ Nhật Bản đã đặt mục tiêu tăng gấp đôi số du khách lên 40 triệu vào năm 2020 và 60 triệu vào năm 2030 để thúc đẩy nền kinh tế.
Hàn Quốc
Trung Quốc là đối tác thương mại số một của Hàn Quốc, chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước này. Do lực cầu từ Trung Quốc giảm, hoạt động xuất khẩu của Hàn Quốc đã giảm trong 14 tháng liên tiếp.
Để chặn đà lao dốc của xuất khẩu, Hàn Quốc đã ký một hiệp định thương mại tự do với Trung Quốc có hiệu lực vào tháng 12 tới. Nước này cũng đang tìm kiếm những đối tác thương mại mới. Gần đây Seoul đã ký kết một thỏa thuận trị giá 5 tỷ euro với Iran.
Du lịch cũng là nhân tố đóng góp quan trọng cho kinh tế Hàn Quốc, khi số du khách Trung Quốc đến nước này đã tăng 5,7% trong tháng 2 so với cùng kỳ năm ngoái.
Australia
Là nước xuất khẩu quặng sắt và than lớn, Australia đã chịu nhiều ảnh hưởng bởi tác động kép từ hoạt động xây dựng suy giảm ở Trung Quốc và chiến dịch làm sạch môi trường của chính phủ nước này khi chuyển sang sử dụng các nguồn năng lượng sạch.
Australia đang tìm cách thu hút đầu tư từ Mỹ và thúc đẩy khu vực dịch vụ trong nước để bù lại sự sụt giảm trong xuất khẩu sang Trung Quốc. Tầng lớp trung lưu đang gia tăng ở Trung Quốc cũng là nguồn du khách tiềm năng cho du lịch nước này.
Ngoài du lịch, đầu tư của Australia vào công nghệ tài chính và hạ tầng công nghệ cũng đã đem lại một số thành tựu nhất định.
Phương Anh (Tổng hợp)