Tăng hạn mức để kích cầu, giữ chân khách hàng
Với những tín đồ thẻ tín dụng, việc ngân hàng bất ngờ tăng hạn mức mà không cần yêu cầu hay chứng minh thu nhập đã trở thành chuyện không hiếm gặp. Nhiều chủ thẻ nhận thấy hạn mức tín dụng của mình được nâng lên đáng kể chỉ sau một thời gian ngắn sử dụng, mở ra cơ hội tài chính nhưng cũng tiềm ẩn không ít rủi ro.
Trên các diễn đàn tài chính cá nhân, không ít khách hàng chia sẻ về tốc độ tăng hạn mức của một số loại thẻ tín dụng. Chị T.T.H (TP. HCM) cho biết cứ sau vài tháng, hạn mức thẻ của chị lại tăng thêm 20 triệu đồng, hiện đã chạm mốc 100 triệu đồng mà vẫn chưa phải mức tối đa của loại thẻ đang sử dụng. Ngược lại, nhiều người dù đã dùng thẻ 2-3 năm vẫn chưa được tăng hạn mức, ráo riết tìm hiểu tiêu chí để được nâng cấp.
Một trường hợp khác, chị N.N.T (Hà Nội) phản ánh rằng dù chi tiêu thẻ tín dụng đều đặn, ngân hàng nước ngoài nơi chị mở thẻ vẫn không tăng hạn mức. Trong khi đó, một người bạn của chị – gần như không sử dụng thẻ – lại được ngân hàng chủ động nâng hạn mức. Điều này khiến nhiều khách hàng đặt câu hỏi về tiêu chí mà các ngân hàng đang áp dụng để xét duyệt tăng hạn mức thẻ tín dụng.
Trao đổi với VietnamFinance, ông Nguyễn Minh Quang, Tổng giám đốc Công ty Công nghệ FIMI, chuyên gia nhiều năm trong lĩnh vực ngân hàng và tín dụng tiêu dùng, cho biết việc ngân hàng chủ động nâng hạn mức thẻ thường xuất phát từ đánh giá tích cực về hành vi sử dụng thẻ của khách hàng.
Theo ông Quang, các ngân hàng theo dõi chặt chẽ lịch sử giao dịch, thói quen thanh toán và tần suất sử dụng thẻ. Nếu khách hàng chi tiêu hợp lý, thanh toán đúng hạn và không có dấu hiệu sử dụng tín dụng quá mức, hệ thống chấm điểm tín dụng của ngân hàng sẽ đánh giá rủi ro tín dụng ở mức thấp, từ đó cho phép tăng hạn mức.
Bên cạnh đó, các ngân hàng ngày càng ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu để xây dựng mô hình chấm điểm tín dụng, không chỉ dựa vào thu nhập mà còn xem xét mức độ tiêu dùng, số dư giao dịch và các chỉ số tài chính khác. Nếu các yếu tố này cho thấy khách hàng có khả năng quản lý tốt hạn mức hiện tại và tiềm năng sử dụng thẻ cao hơn, ngân hàng sẽ chủ động nâng hạn mức tín dụng.
“Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, việc tăng hạn mức thẻ tín dụng là một chiến lược thu hút và giữ chân khách hàng. Khi người dùng cảm nhận được sự linh hoạt trong dịch vụ và khả năng đáp ứng nhu cầu tài chính, họ có xu hướng gắn bó lâu dài với ngân hàng,” ông Quang nhận định.
Cẩn trọng với bẫy tiêu dùng, bẫy tín dụng
Một trong những nguy cơ lớn nhất khi được nâng hạn mức thẻ tín dụng là tâm lý chủ quan, dẫn đến chi tiêu quá đà. Khi hạn mức tăng lên, người dùng có xu hướng mở rộng nhu cầu mua sắm, sử dụng thẻ nhiều hơn để thanh toán mà không cân nhắc kỹ về khả năng hoàn trả. Điều này có thể dẫn đến tình trạng “bội chi” và áp lực tài chính gia tăng nếu không có kế hoạch kiểm soát hợp lý.
Trên thực tế, không ít khách hàng rơi vào vòng xoáy nợ nần vì sử dụng thẻ tín dụng như một nguồn vay tiêu dùng không giới hạn. Ban đầu, họ chỉ có ý định tận dụng thẻ để chi trả các khoản chi tiêu thiết yếu. Nhưng khi hạn mức tăng lên, họ bắt đầu mua sắm những món đồ đắt tiền, chi trả cho các dịch vụ không thực sự cần thiết, hoặc thậm chí sử dụng thẻ để rút tiền mặt với lãi suất cao.
Hậu quả là khi đến hạn thanh toán, số dư nợ lớn hơn dự kiến khiến họ không thể trả hết toàn bộ. Từ đó, số tiền chưa thanh toán sẽ bị tính lãi suất cao, thường dao động từ 25-35%/năm tùy ngân hàng. Nếu tiếp tục chỉ trả số tiền tối thiểu mỗi kỳ sao kê, khoản nợ sẽ ngày càng phình to do lãi suất chồng lãi suất, đẩy người dùng vào tình trạng mất cân đối tài chính.
Theo các chuyên gia tài chính, việc sử dụng thẻ tín dụng hiệu quả đòi hỏi kỷ luật tài chính và hiểu rõ khả năng chi trả của bản thân. "Hạn mức cao không đồng nghĩa với việc phải sử dụng hết. Hãy coi thẻ tín dụng là công cụ thanh toán thay vì một nguồn vay dài hạn. Nếu không kiểm soát được chi tiêu, người dùng rất dễ rơi vào bẫy nợ", một chuyên gia tài chính cá nhân nhận định.
Bên cạnh đó, lợi dụng tâm lý muốn nâng hạn mức nhanh chóng, nhiều đối tượng lừa đảo đã giả mạo nhân viên ngân hàng, mạo danh các tổ chức tín dụng để tiếp cận khách hàng. Những đối tượng này dụ dỗ người dùng cung cấp thông tin cá nhân, mã OTP hoặc yêu cầu chuyển tiền “phí dịch vụ” để được nâng hạn mức thẻ. Không ít trường hợp sau khi làm theo hướng dẫn, chủ thẻ bị chiếm đoạt tiền trong tài khoản hoặc mất quyền kiểm soát thẻ tín dụng.
Để tránh rủi ro, người dùng nên chủ động tìm hiểu chính sách nâng hạn mức của ngân hàng, chỉ thực hiện giao dịch qua các kênh chính thống và không chia sẻ thông tin thẻ, mã OTP cho bất kỳ ai. Đồng thời, cần có kế hoạch chi tiêu hợp lý, sử dụng thẻ tín dụng như một công cụ tài chính thay vì lạm dụng như một nguồn vay tiêu dùng không giới hạn.
Dù vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro, không thể phủ nhận vai trò ngày càng lớn của thẻ tín dụng trong nền kinh tế số. Theo ông Nguyễn Minh Quang, không chỉ là phương tiện thanh toán, thẻ tín dụng còn là công cụ tài chính đa năng, giúp kích thích tiêu dùng, hỗ trợ khách hàng "mua trước, trả sau" và tạo điều kiện tiếp cận nguồn tín dụng linh hoạt. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh mua sắm trực tuyến và các dịch vụ thanh toán số ngày càng phát triển.
Nhờ các điều kiện cấp thẻ linh hoạt và cơ chế tăng hạn mức dựa trên hành vi chi tiêu, ngân hàng không chỉ mở rộng đối tượng khách hàng mà còn triển khai các chương trình ưu đãi như hoàn tiền, tích điểm, khuyến mãi..., từ đó gia tăng giá trị sử dụng thẻ và tăng mức độ gắn bó của khách hàng. Tuy nhiên, việc tiếp cận tín dụng dễ dàng cũng có thể khiến người dùng chi tiêu vượt khả năng, hình thành thói quen phụ thuộc vào thẻ tín dụng thay vì thanh toán bằng tiền mặt.
"Điều này có thể kích thích tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn rủi ro nếu khách hàng không quản lý tài chính cá nhân chặt chẽ, dẫn đến tình trạng nợ xấu và ảo tưởng về sức mua. Thẻ tín dụng có thể trở thành công cụ tài chính hữu ích, nhưng để phát huy hiệu quả, người dùng cần có kế hoạch chi tiêu hợp lý, kiểm soát tài chính chặt chẽ và tránh rơi vào vòng xoáy nợ nần", ông Nguyễn Minh Quang nhấn mạnh.
Vietnamfinance
In bài viết