Vietinbank không phải bồi thường số tài sản Huyền Như đã lừa đảo?

(Kinhdoanhnet)- Nói về trách nhiệm của Ngân hàng Công thương trong vụ án siêu lừa Huyền Như, luật sư Nguyễn Thị Bắc thuộc Đoàn Luật sư TP Hà Nội, khẳng định rằng Viettinbank không có trách nhiệm bồi thường số tài sản mà Huỳnh Thị Huyền Như đã lừa đảo chiếm đoạt của 7 đơn vị trên.

Luật sư Nguyễn Thị Bắc thuộc Đoàn Luật sư TP Hà Nội, bảo vệ quyền lợi cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam. 

Báo Kinh doanh và Pháp luật xin đăng tải bản bào chữa của Luật sư Nguyễn Thị Bắc trong phiên  xử Huỳnh Thị Huyền Như và đồng phạm để bạn đọc có cái nhìn khách quan về vụ việc. 

1. Luật sư Nguyễn Thị Bắc phản bác ý kiến của các luật sư và nội dung kháng cáo của ACB, các nhân viên ACB yêu cầu NHCT trả ACB 718 tỷ đồng và tiền lãi phát sinh bởi các lý do sau:

Lý do nhất: Huỳnh thị Huyền Như đã có ý định chiếm đoạt tiền ngay từ đầu, khi thoả thuận với Huỳnh Thị Bảo Ngọc - Phó phòng quản lý quỹ ACB về việc huy động tiền với lãi suất cao. Cụ thể:

Các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của Huỳnh Thị Huyền Như tại phiên tòa đã thể hiện rõ, do làm ăn thua lỗ, vay lãi nặng không còn khả năng thanh toán và do sức ép của các chủ nợ, nên Như đã nảy ý định huy động tiền của các tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt trả nợ. Do có ý định này nên Như đã đồng ý ngay, khi Huỳnh Thị Bảo Ngọc trao đổi trực tiếp với Như về việc gửi tiền vào NHCT với lãi suất cao và khoản chi riêng cho Ngọc. Cụ thể: Như đã đồng ý Lãi suất được ghi trong hợp đồng là 14%, lãi suất chênh ngoài hợp đồng được trả ngay sau khi tiền chuyển vào TKTT là 3,8 đến 4,5%/năm và riêng cho Ngọc là 1,5%.

Huỳnh Huyền Như tại phiên tòa
Huỳnh Huyền Như tại phiên tòa

Như vậy, “thỏa thuận ngầm” giữa Như và Ngọc trên đây là trái pháp luật (vi phạm Thông tư số 02/2011/TT-NHNN ngày 3/3/2011 của NHNN). Về thỏa thuận này, bị cáo Như đã khai nhận, việc đồng ý lãi suất chênh 3,8 đến 4,5%/năm và 1,5% riêng cho Ngọc là để thực hiện mục đích chiếm đoạt tiền của họ.

Điều đáng chú ý ở đây là: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án Nguyễn Đức Kiên (đã được phô tô gửi HĐXX) thì“thỏa thuận ngầm” trên đây giữa Ngọc và bị cáo Như xuất phát từ chủ trương trái pháp luật của Thường trực Hội đồng quản trị NH ACB ủy thác cho nhân viên của mình gửi tiền vào các tổ chức tín dụng khác và sự triển khai thực hiện chủ trương đó của Ban lãnh đạo ACB (BL22361). Về thực hiện chủ trương này, ông Nguyễn Văn Hòa – Kế toán trưởng ACB đã khai nhận: tôi (Hòa) đã căn cứ vào biên bản họp thường trực HĐQT NH ACB, ủy quyền của Tổng giám đốc, hàng ngày sau khi cân đối nguồn của ngân hàng còn dư mỗi ngày sẽ liên hệ gửi tại các tổ chức tín dụng khác...; Huỳnh Thị Bảo Ngọc - Phó phòng Quản lý quỹ và Huỳnh Thị Ngọc Ánh - Phó phòng kế toán thực hiện liên hệ nơi gửi tiền với yêu cầu về thời hạn, lãi suất, số tiền và ngân hàng gửi. Việc liên hệ, ký kết, thỏa thuận với các ngân hàng là do cô Ngọc, cô Ánh trực tiếp. Sau đó tôi (Hòa) cho làm các Hợp đồng ủy thác đối với các nhân viên đã được lựa chọn và lập giấy tạm ứng tiền cho các nhân viên đứng tên đi gửi để chuyển đến những địa chỉ đã được cô Ngọc, cô Ánh liên hệ để làm thủ tục gửi tiền... Mức lãi suất tối thiểu NH ACB đưa gửi ở mức 17,5% đến 17,8%/năm, nếu cô Ngọc, cô Ánh thỏa thuận được mức nào cao hơn thì sẽ gửi theo mức đó. Cụ thể số tiền NH ACB gửi tại NHCT – CN HCM lãi suất 17,5%/năm – 18,5%/năm, tại NHCT – CN Nhà Bè là 22% (BL16941 - BL16942).

Lý do thứ hai: Với con “mồi lãi suất cao“ và tiền % cho Ngọc, Như đã thực hiện có tính toán tiếp theo các thủ đoạn gian dối, dẫn dụ Ngọc và các nhân viên ACB làm mọi việc theo sự sắp đặt của Như, trong đó có cả các việc làm trái quy định, tắc trách, vô trách nhiệm và Như đã lợi dụng sự sai phạm, tắc trách này để chiếm đoạt trót lọt 718 tỷ đồng của ACB. Cụ thể:

- Sau khi biết Ngọc “mắc bẫy lãi suất“ và tiền % riêng cho Ngọc, Như đã dẫn dụ Ngọc cho 19 nhân viên mở TKTT tại NHCT - CN TP. HCM và CN Nhà Bè. Sau khi đã dẫn dụ Ngọc chuyển tiền vào các TKTT này, Như đã cùng Ngọc sắp đặt cho các nhân viên ký Giấy mở tài khoản tiết kiệm và lệnh chi có nội dung yêu cầu NHCT trích từ TKTT để gửi tiết kiệm có kỳ hạn (BL5109 đến BL5363; BL20412, BL20422).

- Khi Ngọc đã bị dẫn dụ chuyển tiền vào TKTT của các nhân viên ACB, Như đã dùng tiền của mình trả tiền lãi suất chênh cho ACB qua 17 nhân viên là 10,3 tỷ đồng (số tiền này đã được các nhân viên ký giấy nộp luôn vào TKTT của mình) và Như trả cho riêng Ngọc 3,7 tỷ đồng qua TKTT của Huỳnh Thị Chiêu Uyên là chị gái của Ngọc.

Do mắc bẫy lãi suất, Ngọc và theo đó là các nhân viên ACB đã có các sai phạm, tắc trách, vô trách nhiệm và Như đã lợi dụng sự sai phạm này thực hiện tiếp các thủ đoạn gian dối, đó là:

+ Tráo chữ ký trong hồ sơ mở TKTT của một số nhân viên ACB do Ngọc nhờ đăng ký mở TKTT hộ (Dương Thị Nguyệt, Nguyễn Thị Bé Năm, Phạm Phượng Linh, Nguyễn Ngọc Toàn và Lâm Thành Nhơn) (BL5468, BL5484, BL5499);

+ Lập 02 Hợp đồng tiền gửi giả với NHCT- CN Nhà Bè (chữ ký và dấu không phải của NHCT-CN Nhà Bè) với số tiền là 50 tỷ đồng, lãi suất 22%/năm để 02 nhân viên Dương Thị Nguyệt, Nguyễn Thị Bé Năm ký (BL7315, BL7320);

+ Sắp đặt để nhân viên ACB ký lệnh chi khống (Lê Thị Minh Hiền - BL20433).

- Kết quả cuối cùng mà Như đã dẫn dụ được là việc Ngọc đã phó thác tài sản của ACB cho Như qua việc cho phép Như “em làm theo kiểu nào thì em làm miễn sao lãi suất thỏa thuận là như vậy, nộp đủ cho bên chị” và cùng với đó là sự vi phạm nghiêm trọng qui định về trách nhiệm của chủ TKTT cũng như của chủ thẻ tiết kiệm của các nhân viên ACB. Các nhân viên ACB đã hoàn toàn thờ ơ, vô trách nhiệm đối với các biến động của TKTT cũng như đã phó thác các thẻ tiết kiệm cho Như giữ. Lợi dụng sự vô trách nhiệm, phó thác, bỏ mặc này mà Như đã có thể thực hiện chót lọt việc chuyển tiền bằng lệnh chi khống, lệnh chi giả từ các TKTT của các nhân viên ACB đến TK của các cá nhân, tổ chức mà Như vay tiền trước đó cũng như thực hiện được việc chiếm dụng các thẻ tiết kiệm, lập hồ sơ vay cầm cố thẻ tiết kiệm, chiếm đoạt chót lọt 718 tỷ đồng của ACB.

Dưới đây, xin được nói cụ thể hơn về sự sai phạm, tắc trách, vô trách nhiệm của Ngọc và các nhân viên ACB:

- Theo các tài liệu có trong Hồ sơ vụ án Nguyễn Đức Kiên (BL28965 - BL28975), các nhân viên ACB đã khai nhận: Họ đứng tên TKTT và tên trên các hợp đồng nhưng thực chất chỉ là được “đứng tên” để hưởng thù lao từ 200.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Chính vì vậy, họ chỉ làm theo sự chỉ đạo của ACB qua Huỳnh thị Bảo Ngọc mà không quan tâm đến trách nhiệm của chủ TKTT, chủ Thẻ tiết kiệm và trách nhiệm của người ký Hợp đồng ủy thác gửi tiền mặc dù biết rất rõ về nghiệp vụ ngân hàng. ACB tuy là chủ tài sản thực sự nhưng giao hoàn toàn cho Huỳnh Thị Bảo Ngọc. Trong khi đó, Huỳnh thị Bảo Ngọc do đã được nhận từ Như 3,7 tỷ đồng nên đã phó thác cho Như. Tại phiên tòa, Như đã khai nhận: không quen số nhân viên ACB mà chỉ giao dịch với Huỳnh Thị Bảo Ngọc và Ngọc có nói với bị án là: “em làm theo kiểu nào thì em làm miễn sao lãi suất thỏa thuận là như vậy, nộp đủ cho bên chị”.

- Không giống như hàng triệu khách hàng cá nhân đã mở TKTT tại NHCT để thực hiện các dịch vụ thanh toán của NHCT và vẫn đang được NHCT cung ứng dịch vụ bình thường, bảo đảm, các nhân viên ACB mở TKTT tại NHCT – CN HCM không phải để chính họ thực hiện các dịch vụ thanh toán của NHCT (theo đúng mục đích của TKTT) mà mở theo sự sắp đặt của Huỳnh thị Bảo Ngọc với mục đích duy nhất để ACB chuyển tiền đã được huy động từ người dân và gửi NHCT theo thỏa thuận ngầm với Như. Nếu không có khoản lãi suất chênh, không có khoản % cho Ngọc thì chắc không có việc chỉ định các nhân viên này mở TKTT tại NHCT – CN HCM. Thực chất vấn đề ở đây là, ACB đã “mượn” TKTT của các nhân viên, đã lợi dụng hệ thống thanh toán của NHCT để làm phương tiện thực hiện thỏa thuận ngầm - giao dịch bất hợp pháp với cá nhân Như nhằm mục đích kiếm lời bất chính. Như vậy, việc mở TKTT của các nhân viên ACB tại NHCT – CN HCM đã không ngay tình và có sự gian dối ngay từ đầu. Hơn thế nữa, các nhân viên của ACB đã không thực hiện trách nhiệm của Chủ TKTT: không tự tổ chức hạch toán, theo dõi số dư trên tài khoản, không đối chiếu Giấy báo Nợ, Giấy báo Có, mặc dù các nhân viên này đều đăng ký dịch vụ chu kỳ sao kê hàng ngày/tháng, nhận tại NHCT (BL5455 – BL5499); các nhân viên này cũng không có ý kiến phản hồi với NHCT khi tiền trên TKTT của mình bị trích chuyển đến các tài khoản của các đơn vị, cá nhân mà mình không có quan hệ kinh tế.

Như vậy, các nhân viên của ACB đã vi phạm nghiêm trọng khoản 2 và 6 Điều 10 Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN của NHNN, vi phạm khoản 22 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng. Các nhân viên ACB đã có lỗi trong việc để TKTT bị lợi dụng. Do vậy, các nhân viên này phải tự chịu trách nhiệm về hậu quả do tài khoản bị lợi dụng gây ra theo khoản 3 Điều 10 Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN.

- Việc Ngọc và các nhân viên ACB phó thác để cho Như nắm giữ Thẻ tiết kiệm là vi phạm khoản 7 Điều 6; khoản 1 Điều 8 và khoản 3 Điều 25 Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN (Thẻ tiết kiệm là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm; người gửi tiền có trách nhiệm quản lý thẻ tiết kiệm; phải thông báo kịp thời việc mất Thẻ tiết kiệm để tránh bị lợi dụng làm tổn thất tài sản). Do đó, các cá nhân này phải tự chịu trách nhiệm về những thiệt hại do để Thẻ tiết kiệm bị lợi dụng theo khoản 3 Điều 25 Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN của NHNN.

Vấn đề không bình thường ở đây là: Hợp đồng ủy thác gửi tiền ký kết giữa ACB với 19 nhân viên của mình đều có nội dung: ACB đồng ý ủy thác cho bên nhận ủy thác gửi tiền tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam…Hình thức gửi tiết kiệm (Điều 1); bên nhận ủy thác có trách nhiệm nhận và giao lại cho ACB các thẻ tiết kiệm … cung cấp thông tin đến thẻ tiết kiệm, tài khoản tại TCTD định kỳ và bất thường cho ACB (Điều 6) (BL016983-BL017078 - Hồ sơ vụ án Nguyễn Đức Kiên). Nhưng các nhân viên ACB đã không thực hiện các nghĩa vụ cam kết này, không nhận và giao các thẻ tiết kiệm cho ACB, không cung cấp thông tin đến thẻ tiết kiệm, tài khoản cho ACB và ACB cũng không yêu cầu nhân viên của mình nhận và giao lại các thẻ tiết kiệm, cung cấp thông tin đến thẻ tiết kiệm, tài khoản cho ACB. Như vậy, các nhân viên có lỗi trong việc để Thẻ tiết kiệm bị lợi dụng và lỗi này cũng chính là lỗi của ACB vì ACB đã bỏ mặc, không hề quan tâm đến trách nhiệm phải thu lại thẻ tiết kiệm cũng như phải tiếp nhận các thông tin về tài khoản từ các nhân viên.

Lý do thứ ba: 32 Hợp đồng tiền gửi giữa các cá nhân ACB và NHCT-CN HCM là cam kết của hai bên nhưng đã không được thực hiện và chỉ là hình thức để che đậy hợp đồng thực (thỏa thuận ngầm) nhưng trái pháp luật đã được thực hiện giữa ACB và Huỳnh thị Huyền Như. Cụ thể:

32 Hợp đồng tiền gửi được ký kết giữa 17 cá nhân ACB với NHCT - CN TP. HCM với số tiền là 668 tỷ đồng có chữ ký và con dấu thật cũng như với lãi suất đúng qui định của NHNN và đúng với niêm yết công khai của NHCT là cam kết của hai bên để thực hiện giao dịch. Nhưng trên thực tế, 32 hợp đồng này không được thực hiện và chỉ là hình thức để che đậy hợp đồng thực nhưng trái pháp luật giữa ACB và Như vì Ngọc và Như đã thỏa thuận và thực hiện “thỏa thuận ngầm” với nhiều nội dung không có hoặc không đúng với văn bản hợp đồng đã được ký kết. Cụ thể:

- Trên văn bản hợp đồng đã được ký kết, lãi suất được xác định là 14%/năm nhưng theo thỏa thuận “ngầm” và trên thực tế thực hiện thì lãi suất bao gồm lãi suất ghi trong hợp đồng là 14% và lãi suất chênh ngoài hợp đồng từ 3,8 đến 4,5%/năm;

- Trên văn bản hợp đồng đã được ký kết, tiền lãi được trả sau nhưng theo thỏa thuận “ngầm” và trên thực tế thì Như đã trả trước bằng tiền mặt cho ACB số tiền lãi suất chênh (17 nhân viên ACB đã nhận 10,3 tỷ đồng tiền lãi suất chênh và đã ký giấy nộp số tiền này vào TKTT của mình); Như đã trả cho Ngọc 3,7 tỷ đồng qua tài khoản của Huỳnh Thị Chiêu Uyên là chị gái của Ngọc. Toàn bộ số tiền mà các nhân viên ACB đã nhận không phải là tiền của NHCT mà là tiền của Như. Điều đáng chú ý ở đây là, khi nhận tiền lãi chênh để nộp vào TKTT của mình, nhân viên ACB đã ngạc nhiên vì Hợp đồng tiền gửi ghi lãi suất 14%/năm nên đã gọi điện hỏi Ngọc thì Ngọc yêu cầu thực hiện (Lê Thi Minh Hiền khai: Như nói tôi đợi lấy tiền lãi chênh lệch. Tôi ngạc nhiên gọi điện về hỏi chị ngọc: có lãi chênh lệch thì lấy tiền mặt hay sao. Chị Ngọc nói tiền lãi sẽ nộp vô tài khoản tiền gửi, chỉ cầm giấy nộp tiền về thôi - BL28966 Hồ sơ vụ án Nguyễn Đức Kiên). Vấn đề không bình thường ở đây là, các nhân viên ACB đều là nhân viên ngân hàng, họ biết việc nhận lãi suất chênh này là trái với Hợp đồng tiền gửi đã ký với NHCT - CN HCM nhưng lại không thông báo cho NHCT- CN HCM biết.

- Các Hợp đồng tiền gửi đều quy định Bên B được tự động trích số tiền từ TKTT sang tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, nhưng các nhân viên ACB lại ký Giấy mở tài khoản tiết kiệm và lệnh chi có nội dung yêu cầu NHCT trích từ TKTT để gửi tiết kiệm có kỳ hạn và còn có nhân viên ACB đã giao cho Như lệnh chi khống nên Như đã lợi dụng trích tiền từ TKTT để chiếm đoạt. (BL5109 - BL5363; BL20412, BL20422, BL20438 - Hồ sơ vụ án Nguyễn Đức Kiên).

Vì các Hợp đồng tiền gửi trên không được thực hiện nên không được lưu thong hệ thống NHCT. Các chứng từ kế toán để được hạch toán khoản tiền 718 tỷ là các lệnh chi, trong đó có các lệnh chi trích để gửi tiết kiệm. Nhân đay tôi xin trình bày thêm về Biên bản làm việc ngày 28/11/2011 mà Luật sư Tám đã công bố và cho rắng các Hợp đồng tiền gửi được đính kèm Biên bản này là do NHCT cung cấp. Về vấn đề này, Luật sư Tám đã đọc chưa kỹ vì tại điểm 2 trang 2 của Biên bản này đã ghi rõ: … Hợp đồng tiền gửi do các cá nhân này cung cấp (nhân viên ACB).

Lý do thứ tư: Lãnh đạo ACB đã lập tài liệu giả để kiện NHCT vì biết ACB đã bị Huỳnh Thị Huyền Như lừa chiếm đoạt 718 tỷ. Cụ thể:

Trước Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Hòa (kế toán trưởng), Trịnh Kim Quang, Lê Vũ Kỳ đều khai nhận là đã bị Huỳnh Thị Huyền Như lừa chiếm đoạt 718 tỷ (BL16764; BL22432; BL22490 - Hồ sơ vụ án Nguyễn Đức Kiên). Do biết như vậy nên ACB đã làm thêm nhiều văn bản và ghi lùi ngày để hợp thức hồ sơ nhằm mục đích khiếu nại, đòi tiền của NHCT. Đó là các văn bản: Biên bản họp TT HĐQT ngày 07/6/2011; Tờ trình của kế toán trưởng Nguyễn Văn Hòa gửi TGĐ ngày 07/6/2011; Giấy ủy quyền của Lý Xuân Hải ngày 07/6/2011 … Về việc làm gian dối này, Phạm Trung Cang, Lê Vũ Kỳ và Trịnh Kim Quang đã khai nhận: Do Nguyễn Văn Hòa đã trình bày: vì trước đây theo quy trình thì chỉ có gửi tiết kiệm, nếu các anh không ký lại thì ACB làm sai quy trình và mất tiền không đòi lại được (Lời khai Pham Trung Cang; Lê Vũ Kỳ; Trịnh Kim Quang tại BL22541 - BL22542; BL22644 – BL22650; BL22453 - BL22456; BL22508 - BL22510 - Hồ sơ vụ án Nguyễn Đức Kiên).Tại phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án Nguyễn Đức Kiên, bị cáo Lý Xuân Hải –Tổng giám đốc ACB khai nhận: các tài liệu ký lùi ngày này đã được ACB làm giả.

Trong hồ sơ vụ án có nhiều văn bản của ACB gửi cơ quan tiến hành tố tụng thể hiện ACB thừa nhận thiệt hại 718 tỷ đồng (BL16183 - BL16322, BL8476 - BL8478, BL8233, BL8424 - BL8425). Tại công văn số 6117/CV-PC-12 ngày 04/08/2012 gửi Cơ quan tố tụng và các cơ quan chức năng, ACB cũng thừa nhận mình là bên bị thiệt hại trong vụ án: “ …ACB là bên bị thiệt hại, bị ảnh hưởng bởi các hành vi chiếm đoạt tài sản của bà Huỳnh thị Huyền Như ...“.

Lý do thứ năm: Việc tất toán trước hạn khoản vay (455,929 tỷ) cầm cố Thẻ tiết kiệm (trị giá 466,050tỷ) đứng tên các nhân viên của ACB là có căn cứ, đúng pháp luật bởi các lý do sau:

- Theo nội dung của Công văn số 1132/NHNN-CSTT ngày 18/10/2002 của Ngân hàng Nhà nước thì bản chất của nghiệp vụ cho vay cầm cố Thẻ tiết kiệm là cho ứng trước số tiền gửi tiết kiệm để khách hàng sử dụng. Do vậy, khi cho vay phải dựa trên số dư trên Thẻ tiết kiệm để đảm bảo việc thu hồi nợ gốc và lãi vay. Trong trường hợp phải xử lý thu hồi nợ thì việc xử lý chỉ là thủ tục tất toán thẻ tiết kiệm để thu hồi khoản tiền đã ứng trước đó. NHCT đã thực hiện đúng như vậy. Cụ thể:

- Khi phát hiện ra các dấu hiệu gian dối trong việc cầm cố các thẻ tiết kiệm đứng tên nhân viên ACB tại các Phòng giao dịch Điên Biên Phủ và Phòng giao dịch Đinh Tiên Hoàng thuộc NHCT-CN TP. HCM, 2 Phòng giao dịch đã tiến hành xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ vay, tổng số thu nợ là 466,050 tỷ đồng (trong đó, tiền lãi là 6.739.662.084 đồng). 2 Phòng giao dịch là bên nhận bảo đảm ngay tình nên có quyền xử lý thẻ tiết kiệm đã cầm cố để thu hồi tiền vay theo quy định của pháp luật và quy định của NHCT cũng như căn cứ vào nội dung các Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ, kiêm hợp đồng cầm cố đã được ký kết.

- 2 Phòng giao dịch đã căn cứ vào quy định của pháp luật, quy định của NHCT và quy định của các Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ kiêm hợp đồng cầm cố đã được ký kết giữa NHCT và bên vay để xử lý các thẻ tiết kiệm đã bị cầm cố. Cụ thể:

+ Điểm d khoản 1 Điều 25 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN ban hành Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng qui định, TCTD có quyền: “Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng”;

+ Điểm 20.1.5 khoản 20.1 Điều 20 Quyết định số 221/QĐ-HĐQT-NHCT35 ngày 26/2/2010 của Hội đồng quản trị NHCTVN ban hành Quy định cho vay đối với cá nhân, hộ gia đình qui định, Ngân hàng cho vay (NHCV) có quyền: “Chấm dứt giải ngân và thu hồi nợ trước hạn khi xảy ra một trong các sự kiện: + NHCV phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, sử dụng vốn sai mục đích, vi phạm thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và các cam kết khác; Khi có bất kỳ tài liệu, thông tin nào mà theo đánh giá của NHCV có khả năng dẫn đến thay đổi bất lợi, làm suy giảm khả năng trả nợ cho NHCV”;

+ Điều 3 của các Hợp đồng tín dụng ghi nhận: Các bên ủy quyền vô điều kiện cho Bên A (Ngân hàng) được chủ động thanh toán tài sản bảo đảm (gồm cả thanh toán trước hạn) để thu hồi nợ …” và

+ Điều 4 của các Hợp đồng tín dụng ghi nhận Quyền của Bên A (Ngân hàng) được: Chủ động xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trong các trường hợp Bên B (Bên vay) không trả nợ đầy đủ, đúng hạn hoặc phải trả nợ trước hạn …”.

Vì vậy, việc 2 Phòng giao dịch tất toán trước hạn khoản vay cầm cố Thẻ tiết kiệm đứng tên các nhân viên của ACB là đúng quy định của pháp luật, quy định của NHCT và quy định trong các Hợp đồng tín dụng kiêm giấy nhận nợ kiêm hợp đồng cầm cố.

Theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 19/09/2004 của Thống đốc NHNN ban hành Quy chế về tiền gửi tiết kiệm thì thẻ tiết kiệm được coi như tài sản của người gửi tiết kiệm, mất thẻ tiết kiệm cũng như mất tài sản vì: Thẻ tiết kiệm được chuyển nhượng, thừa kế, cầm cố vay vốn …. (các khoản 2, 3 Điều 24). Quy chế này đã quy định: Mất thẻ tiết kiệm thì phải thông báo ngay cho tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm để tránh bị lợi dụng làm tổn thất tài sản, chịu trách nhiệm về những thiệt hại do không khai báo kịp thời việc mất thẻ tiết kiệm (các khoản 3,4 Điều 25). Do đó, do các cá nhân ACB đã thực hiện giao dịch trái pháp luật với Như, phó thác hoàn toàn các thẻ tiết kiệm cho Như nên các cá nhân này phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về thiệt hại do không quản lý thẻ tiết kiệm để Như lợi dụng chiếm đoạt.

Lý do thứ sáu


Về phía NHCT, NHCT (kể cả các bị các nguyên là nhân viên NHCT, trừ bị cáo Như) hoàn toàn không biết nội dung thỏa thuận “ngầm” với lãi suất vượt trần giữa cá nhân Như với ACB, không biết việc thực hiện nội dung thỏa thuận “ngầm” bất hợp pháp này. NHCT cũng hoàn toàn không biết nguồn tiền gửi là của ACB. Tất cả sự thật này, NHCT đều không biết và không thể biết được do sự “kín kẽ” của ACB. NHCT hoàn toàn không có lỗi đối với các sai phạm của lãnh đạo và nhân viên ACB, không có lỗi đối với thỏa thuận “ngầm” trái pháp luật giữa ACB và cá nhân Như, không có lỗi đối với sự tắc trách, vô trách nhiệm của các nhân viên ACB. Do vậy, ACB phải tự chịu trách nhiệm về các sai phạm của mình theo khoản 3 Điều 10 Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN và khoản 3 Điều 25 Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN của NHNN.

Tại phiên tòa, đại diện NHCT đã khẳng định, nếu NHCT biết nguồn tiền của ACB, việc thỏa thuận lãi suất chênh thì NHCT sẽ không chấp thuận cho các nhân viên mở TKTT và gửi tiền tại NHCT.

Tóm lại, với những nội dung đã trình bày và phân tích trên đây có thể khẳng định: Do lòng tham “lãi suất” chênh của lãnh đạo ACB, lòng tham “phần trăm” của Huỳnh Thị Bảo Ngọc - Phó phòng quản lý quỹ nên tất cả đã “sập bẫy” của Như. Lãnh đạo ACB, Huỳnh Thị Bảo Ngọc và các nhân viên ACB đã vi phạm pháp luật, tắc trách, vô trách nhiệm thực hiện giao dịch bất hợp pháp với Như. Các sai phạm này đã bị Huỳnh Thị Huyền Như lợi dụng để thực hiện các thủ đoạn gian dối chiếm đoạt toàn bộ 718 tỷ đồng của ACB.

Vì vậy, tôi thấy rằng Bản án số 46/2014/HSST ngày 27/01/2014 của TAND TP HCM với nội dung tuyên Huỳnh Thị Huyền Như phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và buộc Huỳnh Thị Huyền Như phải bồi thường cho ACB 718 tỷ đồng theo khoản 1 Điều 42 BLHS là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

Luật sư Nguyễn Thị Bắc phản bác ý kiến của Luật sư và nội dung kháng cáo của Công ty CP Chứng khoán Saigonbank-Berjaya (SBBS) yêu cầu NHCT bồi thường 210 tỷ đồng; phản bác ý kiến của vị đại diện VKS cho rằng có dấu hiệu của Tội tham ô đối với khoản chiếm đoạt 210 tỷ đồng này, bởi các lý do sau:
Lý do nhất: Huỳnh thị Huyền Như đã có ý định chiếm đoạt tiền ngay từ đầu, khi thoả thuận với Vũ Thị Mỹ Linh- Kế toán trưởng SBBS về việc huy động tiền của SBBS với lãi suất cao. Cụ thể:

Tương tự như vụ việc trên, do cần tiền để trả nợ nên Như đã nảy ý định huy động tiền của các tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt trả nợ. Do có ý định này nên Như đã đồng ý ngay, khi Vũ Thị Mỹ Linh- Kế toán trưởng SBBS trao đổi trực tiếp với Như về việc gửi tiền vào NHCT với lãi suất cao và khoản chi riêng cho Vũ Thị Mỹ Linh và Vũ Minh Hải – nhân viên Công ty CP CK Ocean Bank – người giới thiệu Như với Linh. Cụ thể: Như đã đồng ý Lãi suất được ghi trong hợp đồng là 14%, lãi suất chênh ngoài hợp đồng được trả ngay sau khi tiền chuyển vào TKTT là 16% đến 18%/năm, trong đó có % chi riêng cho Linh, Hải (Lời khai của Huỳnh Thị Huyền Như - BL1114 - BL1117, BL1122 - BL1364; của Vũ Thị Mỹ Linh - BL31277 - BL31280; của Vũ Minh Hải - BL31294). Tại BL31279, Vũ Thị Mỹ Linh khai nhận: Linh đã thỏa thuận với Huỳnh Thị Huyền Như từ trước với lãi suất dao động từ 17% đến 23%/năm tùy từng thời điểm... và tôi (Linh) đã báo cáo với lãnh đạo công ty mức lãi suất từ 16% đến 21% tùy theo từng hợp đồng, còn phần chênh lệch lãi suất còn lại anh Vũ Minh Hải là người nhận tiền và chia lại cho tôi (Linh).

Đây là “thỏa thuận ngầm” giữa cá nhân Như với Linh và cũng là thủ đoạn của Như để thực hiện mục đích chiếm đoạt tiền của SBBS. Thỏa thuận này đã không ngay tình và có sự gian dối ngay từ đầu.

Lý do thứ hai: Với con “mồi lãi suất cao“ và tiền % chênh cho Linh, Như đã thực hiện có tính toán tiếp theo các thủ đoạn gian dối, dẫn dụ Linh làm mọi việc theo sự sắp đặt của Như, trong đó có cả các việc làm trái quy định, tắc trách, vô trách nhiệm của Linh và Như đã lợi dụng sự sai phạm, tắc trách này để chiếm đoạt trót lọt 210 tỷ đồng của SBBS. Cụ thể:

- Sau khi biết SBBS đã ”sập bẫy lãi suất”, bị cáo Như đã thuê khắc giấu giả đứng tên công ty này và thực hiện tiếp các thủ đoạn gian dối dẫn dụ SBBS làm theo sự “sắp đặt” của mình để chiếm đoạt tiền của SBBS. Như đã dẫn dụ SBBS mở tài khoản thanh toán tại NHCT - CN TP HCM; làm 14 Hợp đồng ủy thác đầu tư vốn giả (từ 18/5/2911 đến 16/8/2011) giữa SBBS với NHCT - CN Nhà Bè (chữ ký và dấu không phải của NHCT - CN Nhà Bè) với tổng số tiền là 225 tỷ đồng và dẫn dụ SBBS ký kết các hợp đồng này (tiền của HĐ số 06 và số 09 khi tất toán được gửi tiếp để ký HĐ số 12 và số 13; Tổng giá trị 14 HĐ là 245 tỷ đồng.) Tất cả các Hợp đồng giả này đều không lưu trong hệ thống NHCT. Tiếp đó, Như đã dẫn dụ SBBS chuyển 225 tỷ đồng vào TKTT theo Hợp đồng ủy thác đầu tư vốn giả;

- Sau khi Linh đã bị dẫn dụ chuyển tiền vào TKTT, Như đã dùng tiền của mình thanh toán tiền lãi chênh 4,2 tỷ đồng cho SBBS (BL31142, BL31145, BL31146, BL31147). Như đã thanh toán cho SBBS tiền lãi 14% hàng tháng của các tháng 5,6,7,8 theo Hợp đồng ủy thác đầu tư vốn giả với tổng số tiền là 7,126 tỷ đồng (BL031143, BL031144, BL031148, BL031149). Như cũng đã thanh toán một phần lãi chênh cho riêng Linh và Hải 22,82 tỷ đồng. Linh đã thừa nhận được nhận 9,9 tỷ đồng của Như chuyển qua Hải (BL031373; BL031277 - BL031280), còn Hải chỉ thừa nhận được hưởng 1,26% số tiền của từng hợp đồng gửi, số còn lại đã chuyển cho Linh (Lời khai Vũ Minh Hải - BL031389). Tuy nhiên, các chứng từ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện rõ, Hải đã nhận lãi suất chênh 27,06 tỷ đồng từ người giúp việc của Như chuyển cho bằng chuyển/nộp tiền vào tài khoản và giao tiền mặt (giao tiền mặt là 1,25 tỷ đồng) Hải hưởng 12,9 tỷ đồng và chuyển cho Linh để chuyển trả SBBS và phần của Linh là 14,1 tỷ. Linh nộp/chuyển vào TKTT của SBBS tại Eximbank 4,2 tỷ đồng, số 9,9 tỷ đồng còn lại Linh hưởng (BL23392, BL23164, BL22228, BL22498, BL22786, BL23417, BL31292, BL32532, BL24885, BL31292). Về số tiền được nhận từ Như, Linh mới nộp cho cho Cơ quan điều tra vào tài khoản tạm giữ Cục cảnh sát kinh tế 7 tỷ đồng, Hải mới nộp 1,299 tỷ đồng (BL63228 - BL63225, BL63224 - BL63227).

Vấn đề không bình thường ở đây là: Toàn bộ 14 Hợp đồng ủy thác đầu tư vốn đều quy định lãi suất 14%/năm, SBBS đã nhận khoản lãi suất 14% này đều đặn hàng tháng với tổng số tiền là 7,126 tỷ đồng, nhưng lại nhận thêm khoản lãi suất chênh là 4,2 tỷ đồng nhưng SBBS không thông báo cho NHCT biết; theo Hợp đồng ủy thác đầu tư vốn giả thì tiền thanh toán phải chuyển vào TKTT 102010001266041 của SBBS tại NHCT, nhưng hầu hết số tiền Như thanh toán đều đứng tên người giúp việc của Như nộp/chuyển vào TKTT của SBBS tại Eximbank (BL1115).

- Trong vụ việc này, SBBS không những đã bị lừa ký và thực hiện Hợp đồng ủy thác đầu tư vốn giả, chuyển tiền vào TKTT theo Hợp đồng giả mà nghiêm trọng hơn SBBS đã không thực hiện bất kỳ trách nhiệm nào của Chủ tài khoản: Không theo dõi số dư trên tài khoản, không đối chiếu Giấy báo Nợ, Giấy báo Có, không thực hiện hạch toán nghiệp vụ phát sinh theo quy định về hạch toán kế toán doanh nghiệp (theo quy định tại QĐ 15/2006 của BTC: Tài khoản 112 dùng để phản ánh số hiện có và tình hình biến động, tăng giảm các khoản tiền gửi tại NH của DN). SBBS không những không có ý kiến gì với NHCT khi tiền trên TKTT của mình bị trích chuyển đến các tài khoản của các đơn vị, cá nhân mà mình không có quan hệ kinh tế mà còn bỏ mặc cho các giao dịch lạ luân chuyển đến/đi TKTT của mình. Sao kê TKTT của Công ty SBBS từ 18/5/2011 đến 31/8/2011 (BL031213) cho thấy, trên TKTT của Công ty SBBS đã diễn ra nhiều giao dịch bất thường. Kế toán trưởng của Công ty SBBS cũng phát hiện sự bất thường cũng như nhiều giao dịch lạ qua tài khoản khi giao dịch với Như (các bất thường là: tiền lãi của hợp đồng do cá nhân nộp vào TKTT của SBBS mở tại Eximbank; giao dịch chuyển từ TKTT tại CN HCM đến tài khoản của chính SBBS mở tại Eximbank trong khi SBBS không lập lệnh chi; nhiều khoản lãi hàng tháng do người giúp việc của Như nộp/chuyển khoản vào TKTT của SBBS tại Eximbank v.v..). Tất cả sự bất thường đó đều không được SBBS thông báo cho NHCT mà đã mặc nhiên chấp nhận theo dẫn dụ của Như. Nhiều khoản tiền lớn do các đối tượng lạ chuyển vào TKTT của mình nhưng SBBS cũng không có ý kiến gì với NHCT mà coi như tiền của mình.

Với các phân tích trên, tôi cho rằng nhận định của vị đại diện VKS: “họ (khách hàng) có quyền biết số dư tiền gửi và các giao dịch trong tài khoản của mình nhưng họ không có nghĩa vụ quản lý tài khoản” là không đúng. Khi nhận định như vậy, vị đại diện VKS đã quên nguyên tắc chung là quyền luôn đi đôi với nghĩa vụ. Bất cứ KH bình thường nào cũng hiểu và sử dụng quyền đó để tự hạch toán, theo dõi số dư trên tài khoản, đối chiếu Giấy báo Nợ, Giấy báo Có và thông báo ngay cho ngân hàng biết khi có biến động bất thường trến số dư TKTT của mình. Chỉ những KH như SBBS vì động cơ không bình thường mới bỏ mặc TK của mình ngay cả khi biết có sự biến động bất thường của TK.

Vấn đề không bình thường còn thể hiện đặc biệt chỗ: SBBS mở TKTT ngày 18/5/2011. Theo các lệnh chi từ TKTT của SBBS tại các BL4335 - BL4356, thì SBBS có 01 lệnh chi viết tay vào ngày 31/8 với nội dung chuyển 15 tỷ đồng từ TKTT này về TKTT tại NH Saigonbank (Tại phiên tòa đại diện SBBS đã thừa nhận lệnh chi này là thật do SBBS phát hành). Khi thực hiện giao dịch có thật này, chắc chắn SBBS đã phải kiểm tra số dư trên TKTT và qua đó SBBS phải biết TKTT của mình bị lợi dụng vì đến thời điểm này đã có nhiều lệnh chi do Như làm giả chuyển tiền đi cho các tổ chức/cá nhân cũng như đã có việc chuyển tiền lãi các tháng 5, 6 và 7 từ TKTT này về TKTT của SBBS tại NH khác. Tuy nhiên, SBBS không hề có ý kiến gì với NHCT. Điều này đồng nghĩa SBBS đã chấp nhận để Như sử dụng TKTT của SBBS.

Như vậy, SBBS đã vi phạm nghiêm trọng điểm b Khoản 1 Điều 8 Quyết định số 1789/2005/QĐ-NHNN của NHNN, Điều 6 Luật Kế toán và Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC của Bộ Tài chính, các khoản 2, 5 và 6 Điều 10 Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN của NHNN. SBBS với tư cách là Chủ tài khoản đã có lỗi trong việc để TKTT của mình bị lợi dụng. Vì vậy, SBBS phải chịu trách nhiệm về thiệt hại xảy ra theo quy định tại khoản 3 Điều 10 Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN.

Lợi dụng sự sai phạm, vô trách nhiệm, bỏ mặc trên mà Như đã có thể thực hiện chót lọt việc chuyển tiền bằng lệnh chi giả từ các TKTT của SBBS đến TK của các cá nhân, tổ chức mà Như vay tiền trước đó.

- Vấn đề bất bình thường nữa là: Ngày 15/5/2011 Linh và Hải đã đến PGD Điện biên Phủ gặp Như, biết rõ là Như làm việc tại PGD Điện biên Phủ (lời khai của Hải BL31388 - BL31389) nhưng vẫn giao dịch với Như để ký nhiều Hợp đồng ủy thác đầu tư vốn giả với NHCT - CN Nhà Bè trong thời gian dài.

Với các phân tích trên, tôi cho rằng nhận định của vị đại diện VKS: “Nếu tiền của KH bị mất … thì VTB phải chịu trách nhiệm …” là không đúng. Khi nhận định như vậy, vị đại diện VKS đã quên rằng, trách nhiệm trong quan hệ giao dịch dân sự luôn có sự ràng buộc với nhau. Do vậy, NHNN đã xác định trường hợp KH phải tự chịu trách nhiệm khi có lỗi như được trích dẫn trên (3 Điều 10 Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN).

Lý do thứ ba: Tương tự như các công ty và các cá nhân trong vụ án này, SBBS mở TKTT tại NHCT - CN TP HCM không phải để chính họ thực hiện các dịch vụ thanh toán của NHCT (theo đúng mục đích của TKTT) cho hoạt động bình thường của họ mà mở với mục đích duy nhất để SBBS chuyển tiền thực hiện Hợp đồng giả mà Như đã lừa SBBS ký kết. Nếu không có khoản lãi suất chênh, không có khoản % cho Linh thì chắc không có việc SBBS mở TKTT tại NHCT – CN HCM. Thực chất vấn đề ở đây là, SBBS đã lợi dụng hệ thống thanh toán của NHCT để làm phương tiện thực hiện thỏa thuận ngầm - giao dịch bất hợp pháp với cá nhân Như nhằm mục đích kiếm lời bất chính.

Về vấn đề này, vị đại diện VKS cho rằng việc mở TKTT của SBBS là hợp lệ đã được NHCT chấp thuận. Nhưng với những nội dung phân tích ở trên thì sự hợp lệ này chỉ là hình thức mà thực chất là bất hợp pháp, vì SBBS đã lừa dối NHCT việc mở TKTT với mục đích duy nhất để thực hiện thỏa thuận ngầm với Như để kiếm lời bất chính. Trong khi, vị đại diện VKS đã trích dẫn để khẳng định mục đích của TKTT theo khoản 22 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng là “sử dụng các dịch vụ thanh toán do NH cung ứng”.

Như vậy, việc mở TKTT của SBBS đã không ngay tình và có sự gian dối ngay từ đầu, vi phạm khoản 22 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng.

Lý do thứ tư: Số dư trên TKTT là tài sản thuộc sở hữu của chủ TKTT. Cụ thể:

- Khi khách hàng chuyển tiền từ ngân hàng ngoài hệ thống vào một TKTT của khách hàng mở tại NHCT, thì hệ thống thanh toán NHCT sẽ tự động hạch toán vào TKTT của khách hàng mở tại NHCT và được ghi nhận vào tài sản của khách hàng trên bảng cân đối kế toán của khách hàng (khách hàng là tổ chức). Tương ứng với đó, Khoản mục nguồn vốn trên bảng cân đối kế toán của NHCT tăng, đồng thời số tiền đó được tự động hạch toán vào TKTT của NHCT tại NHNN.

Như vậy, khi một khoản tiền được chuyển vào TKTT của khách hàng mở tại NHCT thì khoản tiền này sẽ thể hiện ở hai TKTT khác nhau - TKTT của khách hàng tại NHCT và TKTT của NHCT tại NHNN (theo nguyên tắc nhân đôi tiền trong hoạt động ngân hàng; đây là tính đặc thù trong hoạt đông ngân hàng; tại phiên tòa có ý kiến so sánh với các hoát động khác, tôi cho rằng sự so sánh đó là rất khập khiễng). Theo đó, NHCT được quyền sử dụng và có trách nhiệm tự tổ chức hạch toán, theo dõi số dư trên tài khoản thanh toán của mình mở tại Ngân hàng nhà nước, còn khách hàng được quyền sử dụng và có trách nhiệm tự tổ chức hạch toán, theo dõi số dư trên tài khoản thanh toán của mình mở tại NHCT. Do vậy, có thể khẳng định:

+ Chỉ có chủ TKTT mới có quyền sử dụng, định đoạt số dư trên TKTT (Khoản 1 Điều 6 NĐ 64/2001/NĐ-CP ngày 20/09/2001 của Chính Phủ; Khoản 1 Điều 9 QĐ 1284/2002/QĐ-NHNN ngày 21/11/2002 của NHNN)

+ Theo quy định của pháp luật về Chế độ hạch toán kế toán đối với các Doanh nghiệp thì số dư trên tài khoản thanh toán của các doanh nghiệp mở tại ngân hàng (còn được gọi là "bút tệ") được hạch toán tại TK 112 "Tiền gửi ngân hàng" thuộc khoản mục "Tài sản ngắn hạn" trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Trên thực tế, chỉ có chủ tài khoản mới được quyền sử dụng & định đoạt số tiền trên TKTT của mình, các ngân hàng không được phép sử dụng hoặc định đoạt số tiền trên TKTT đó.

+ Theo quy định tại Khoản 2 & 3 Điều 10 QĐ 1284 của NHNN thì chủ TKTT có trách nhiệm tự tổ chức hạch toán, theo dõi số dư trên TK, đối chiếu với Giấy báo nợ, Giấy báo có hoặc Giấy báo số dư TK; chịu trách nhiệm về những sai sót hay hành vi lợi dụng, lừa đảo khi sử dụng dịch vụ thanh toán qua TK do lỗi của mình. Còn ngân hàng là tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, thực hiện đầy đủ, kịp thời các lệnh thanh toán của chủ TKTT (Khoản 2 Điều 12 QĐ 1284).

Vì vậy, ý kiến của vị đại diên VKS cho rằng, số dư trên TKTT của khách hàng thuộc sở hữu của ngân hàng là trái với nguyên tắc nhân đôi tiền trong hoạt động ngân hàng, trái với Quyết định số 15 của Bộ tài chính. Ở đây, vị đại diện VKS cũng đã hiểu không đúng sự khác nhau giữa tiền mặt và giá trị tiền trên TKTT; giữa TKTT của khách hàng và TKTT của ngân hàng.

- Huỳnh Thị Huyền Như ở thời điểm phạm tội được NHCT sắp sếp vị trí quyền trưởng Phòng giao dịch Điện Biên Phủ và vị trí Kiểm soát viên trong các quy trình nghiệp vụ. Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng (khoản 31 Điều 4) và Điều lệ của NHCT thì người quản lý trong hệ thống NHCT gồm: thành viên HĐQT, Tổng giám đốc, Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng, Trưởng/Phó các phòng, ban trực thuộc, Giám đốc/Phó giám đốc chi nhánh. Còn lại toàn bộ nhân viên, người lao động, kể cả các vị trí lãnh đạo khác làm việc trong hệ thống NHCT đều được điều chỉnh bằng Hợp đồng lao động theo quy định của Bộ luật lao động. Vì vậy, với vị trí được giao thì Huỳnh Thị Huyền Như tuy có vị trí là quyền Trưởng PGD không thuộc đối tượng người quản lý trong hệ thống NHCT. Với vị trí được NHCT giao, Huỳnh Thị Huyền Như tuy có quyền được phê duyệt giao dịch rút, chuyển khoản đến 50 tỷ đồng trên hệ thống Incas, nhưng đây chỉ là một tác nghiệp vận hành trên hệ thống trong quy trình chuyển khoản. Việc phê duyệt lệnh chuyển tiền đến 50 tỷ đồng phải căn cứ trên yêu cầu của chủ tài khoản và phải được Giao dịch viên kiểm tra trước. Điều này có nghĩa Như không có quyền quản lý số dư trên TKTT của khách hàng. Việc đánh đồng hạn mức phê duyệt 50 tỷ đồng với trách nhiệm quản lý số dư trên TKTT của khách hàng như khẳng định của vị đại diện VKS là không đúng. Như không có quyền, trách nhiệm tự tổ chức hạch toán, theo dõi số dư trên TKTT của đơn vị, cá nhân mở tại NHCT. Vì vậy, Huỳnh Thị Huyền Như không thể là chủ thể tội tham ô. Điều này cũng phù hợp với thực tế là Như đã phải bỏ tiền dẫn dụ để người của SBBS mắc sai phạm và lợi dụng sai phạm chiếm đoạt tài sản của SBBS.

Với phân tích trên, tôi cho rằng nhận định của vị đại diện VKS: “Như được quyền khai thác tiền gửi của khách hàng để kinh doanh nhưng Như đã lợi dụng chức vụ quyền hạn … để chiếm đoạt …” là không đúng. Khi nhận định như vậy, vị đại diện VKS đã quên rằng, hành vi phạm tội của Như nhằm vào TKTT của SBBS, còn để kinh doanh, Như dựa vào TKTT của NHCT; Như không có quyền khai thác TKTT của SBBS hay của bất cứ khách hàng nào.

Lý do thứ năm

Về phía NHCT, NHCT (kể cả các bị caco nguyên là nhan viên NHCT, trừ bị cáo Như) hoàn toàn không biết nội dung thỏa thuận “ngầm” với lãi suất vượt trần giữa cá nhân Như với SBBS, không biết việc thực hiện nội dung thỏa thuận “ngầm” bất hợp pháp này. Hơn thế nữa, SBBS là một Định chế tài chính lớn, thế mà khi biết rõ việc nhận thêm khoản lãi suất chênh 4,2 tỷ đồng từ Như là trái với Hợp đồng ủy thác đầu tư vốn do TGĐ Yei Pheck Joo ký nhưng không hề thông báo cho NHCT biết; khi biết việc nhận tiền lãi suất 14% do các ca nhân không có quan hệ kinh tế nộp/chuyển vào TKTT của mình và biết rõ sự bất thường biến động số dư trên TKTT của mình nhưng không hề thong báo cho NHCT biết. NHCT hoàn toàn không có lỗi đối với các sai phạm, tắc trách của lãnh đạo SBBS, không có lỗi đối với thỏa thuận “ngầm” trái pháp luật giữa SBBS với cá nhân Như; không có lỗi đối với việc SBB ký và thực hiện Hợp đồng giả với Như, không có lỗi đối với sự tắc trách, vô trách nhiệm, sai phạm của nhân viên SBBS (Vũ Thị Mỹ Linh). Do vậy, SBBS phải tự chịu trách nhiệm về các sai phạm của mình theo khoản 3 Điều 10 Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN. Nếu không buộc SBBS phải tự chịu trách nhiệm thì cũng có nghĩa vô hiệu hóa quy định của NHNN về trách nhiệm của chủ TKTT, khuyến khích các hành vi sai phạm (Các đơn vị nếu có cơ hội thu lợi bất chính sẽ sẵn sàng vi phạm vì nếu có hậu quả xảy ra sẽ có đơn vị khác gánh chịu).

Tại phiên tòa, Đại diện NHCT đã khẳng định, nếu NHCT biết thỏa thuận “ngầm” trái pháp luật giữa SBBS với cá nhân Như thì NHCT sẽ không chấp thuận cho SBBS mở TKTT tại NHCT.

Tóm lại, với những nội dung đã trình bày và phân tích trên đây có thể khẳng định: Trong vụ việc này, bị cáo Như đã giả danh NHCT – CN Nhà Bè để giao dịch bất hợp pháp với SBBS. Do lòng tham “lãi suất” chênh của lãnh đạo SBBS, lòng tham “phần trăm” của Kế toán trưởng Vũ Thị Mỹ Linh nên tất cả đã “sập bẫy” của Như. Lãnh đạo SBBS và kế toán trưởng Vũ Thị Mỹ Linh đã vi phạm pháp luật, tắc trách, vô trách nhiệm thực hiện giao dịch bất hợp pháp với Như. Các sai phạm này đã bị Huỳnh Thị Huyền Như lợi dụng để thực hiện các thủ đoạn gian dối chiếm đoạt toàn bộ 210 tỷ đồng của SBBS.

Vì vậy, tôi thấy rằng Bản án số 46/2014/HSST ngày 27/01/2014 của TAND TP HCM với nội dung tuyên Huỳnh Thị Như phạm tôi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và buộc Huỳnh Thị Như phải bồi thường 210 tỷ đồng cho SBBS theo khoản 1 Điều 42 BLHS là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật. Yêu cầu của Luật sư và đại diện SBBS là trái quy định tại khoản 1 Điều 42 BLHS, trái Điếu 249 BLTTHS.

3. Tôi phản bác nội dung kháng cáo của bà Lê Thị Ngọc Nga và ý của đại diện bà Lê Thị Ngọc Nga yêu cầu NHCT bồi thường cho bà Lê Thị Ngọc Nga 146 tỷ và tiền lãi phát sinh bởi lẽ:

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì nội dung kháng cáo của bà Lê Thị Ngọc Nga trên đây không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm vụ án. Vì vậy, nội dung kháng cáo của bà Lê Thị Ngọc Nga và ý của đại diện bà Lê Thị Ngọc Nga yêu cầu NHCT bồi thường cho bà Lê Thị Ngọc Nga 146 tỷ và tiền lãi phát sinh là không có căn cứ, trái với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

4. Vị đại diện VKS cho rằng hành vi chiếm đoạt số tiền 1.085 tỷ đồng từ tài khoản tiền gửi thanh toán của 5 đơn vị là Công ty CP Chứng khoán SaigonBank Beryaja, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Toàn Cầu, Công ty CP Thương mại và Đầu tư Hưng Yên, Công ty CP Chứng khoán Phương Đông, Công ty CP Đầu tư và Thương mại An Lộc là hành vi phạm tội tham ô tài sản. Từ đó, vị đại diện VKS đề nghị HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo của 5 nguyên đơn dân sự, áp dụng khoản 1 Điều 250 BLTTHS hủy một phần bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Như và đồng phạm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các đơn vị trên để điều tra lại. Xét về thủ tục tố tụng, tôi cho rằng ý kiến này của vị đại diện VKS là không phù hợp với quy định của BLTTHS. Bởi lẽ: Huỳnh Thị Huyền Như không kháng cáo và VKS không kháng nghị về tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tòa án đã tuyên nên phần bản án về tội danh có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Do vậy, theo các điều 230 và 240 BLTTHS thì cấp phúc thẩm không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo đối với phần đã có hiệu lực pháp luật.

5. Trong vụ án này, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện rõ, quan hệ giao dịch giữa các đơn vị, cá nhân với Huỳnh Thị Huyền Như mà trong đó NHCT là đơn vị có liên quan đã có những dấu hiệu của tội phạm đã được NHCT phát hiện thông qua công tác kiểm tra, kiểm soát và đã chủ động báo cáo cơ quan chức năng đề nghị làm rõ để xử lý theo pháp luật. Cơ quan tiến hành tố tụng đã tiến hành khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can và đã tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án.

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và với toàn bộ những nội dung đã trình bày, phân tích trên đây có thể khẳng định, Huỳnh Thị Huyền đã có ý đồ lừa đảo chiếm đoạt tiền của các đơn vị, cá nhân ngay từ đầu. Để thực hiện ý định này, Như đã giả danh, lợi dụng danh nghĩa NHCT để huy động vốn của các đơn vị, cá nhân bằng bẫy lãi suất cao và bằng các thủ đoạn gian dối. Bẫy lãi suất cao đã giúp bị cáo Như làm các đơn vị, cá nhân bị sập bẫy lãi suất. Như đã sử dụng nhiều thủ đoạn gian dối khác nhau như: Trả tiền lãi suất chênh trước khi ký hợp đồng hoặc ngay khi tiền về TKTT; chi riêng tiền phần trăm cho người đại diện, ký Hợp đồng giả, dẫn dụ chuyển tiền vào TKTT, tráo giấy đăng ký mở TKTT, làm dấu giả, sử dụng lệnh chi khống, làm chứng từ giả v.v. Tất cả đã tạo thành một chuỗi hành vi gian dối có tính toán, sắp đặt để Như thực hiện việc chiếm đoạt trót lọt tiền của các đơn vị, cá nhân đã bị mắc lừa. Tất cả các hành vi trong chuỗi hành vi gian dối của Như đều nhằm vào tài sản của các đơn vị này để chiếm đoạt. Các hành vi, thủ đoạn gian dối đó có quan hệ mặt thiết với nhau, hành vi gian dối trước là tiền đề cho hành vi gian dối sau, hành vi gian dối sau là mục đích của hành vi gian dối trước. Tất cả chuỗi hành vi này chỉ có thể được thực hiện do chính sai phạm của các đơn vị, cá nhân thể hiện ở sự tắch trách, vô trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân, từ lãnh đạo đến các người đại diện giao dịch mà nguyên nhân của sự sai phạm này là lòng tham “lãi suất” cũng như tỷ lệ “phần trăm”. Từ đó, tất cả đã “sập bẫy” lừa đảo của Như. Vì vậy, khi xem xét, đánh giá bản chất nội dung vụ án, xác định tội danh cho hành vi của bị cáo Như không thể cắt khúc riêng lẻ từng thủ đoạn, từng hành vi gian dối mà phải xem xét một cách tổng thể về ý thức chủ quan, thủ đoạn, hành vi phạm tội trong mối quan hệ với đối tượng mà Như hướng tới.

Như vậy, đây là quan hệ lừa đảo và trong quan hệ lừa đảo, người lừa đảo phải hoàn trả tài sản đã chiếm đoạt cho người bị lừa đảo; người bị lừa đảo có quyền đòi kẻ lừa đảo phải bồi thường theo quy định tại Khoản 1 Điều 42 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Bản án số 46/2014/HSST ngày 27/01/2014 của TAND TP HCM với nội dung tuyên Huỳnh Thị Huyền Như phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Ngân hàng TMCP Á Châu, Ngân hàng TMCP Nam Việt, Công ty CP Chứng khoán SaigonBank Beryaja, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Toàn Cầu, Công ty CP Thương mại và Đầu tư Hưng Yên, Công ty CP Chứng khoán Phương Đông, Công ty CP Đầu tư và Thương mại An Lộc và buộc Huỳnh Thị Như phải bồi thường cho các đơn vị này toàn bộ số tiền mà Như đã chiếm đoạt của họ theo khoản 1 Điều 42 BLHS là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

Vì vậy, Luật sư Nguyễn Thị Bắc khẳng định rằng NHCT không có trách nhiệm bồi thường số tài sản mà Huỳnh Thị Huyền Như đã lừa đảo chiếm đoạt của 7 đơn vị trên.

Vì các lẽ trên, Luật sư Nguyễn Thị Bắc đề nghị HĐXX xem xét bác kháng cáo của Ngân hàng TMCP Á Châu, Ngân hàng TMCP Nam Việt, Công ty CP Chứng khoán SaigonBank Beryaja, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Toàn Cầu, Công ty CP Thương mại và Đầu tư Hưng Yên, Công ty CP Chứng khoán Phương Đông, Công ty CP Đầu tư và Thương mại An Lộc và bà Lê Thị Ngọc Nga; Không chấp nhận đề nghị của vị đại diện VKS hủy một phần bản án sơ thẩm đối bị cáo Như và đồng phạm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 5 công ty trên trên để điều tra lại.

 

KinhDoanhNet

Cùng Chuyên Mục