Sửa đổi quy định khai thuế, tính thuế với hoạt động kinh doanh TMĐT
Tại dự thảo sửa đổi Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi chính sách nhằm tạo nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội thông qua mở rộng cơ sở thu, chống thất thu thuế, nhất là hoạt động thương mại điện tử (TMĐT), kinh doanh dựa trên nền tảng số.
Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 42 về khai thuế, tính thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số; đồng thời sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 90 về nguyên tắc lập, quản lý, sử dụng hóa đơn điện tử.
Lý giải về đề xuất trên, Bộ Tài chính cho hay, khái niệm về “cơ sở thường trú” hiện nay chỉ có tại quy định của pháp luật thuế TNDN và trong việc áp dụng hiệp định tránh đánh thuế 2 lần giữa Việt Nam và các quốc gia, vùng lãnh thổ. Quy định hiện hành tại khoản 4 Điều 42 Luật Quản lý thuế dẫn đến một số nhà cung cấp ở nước ngoài cho rằng, trường hợp họ có hình thành cơ sở thường trú tại Việt Nam thì họ không thuộc đối tượng phải đăng ký thuế, kê khai nộp thuế theo quy định tại khoản 4 Điều 42 Luật Quản lý thuế.
Trong trường hợp này, họ chỉ thuộc đối tượng nộp thuế TNDN trên phần lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường trú theo quy định của pháp luật thuế TNDN và Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần (ví dụ như trường hợp của Booking.com).
Tuy nhiên, Bộ Tài chính cho hay, theo quy định của pháp luật về thuế VAT và pháp luật về thuế TNDN thì các nhà cung cấp nước ngoài khi thực hiện hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác tại Việt Nam thì nhà cung cấp ở nước ngoài thuộc đối tượng nộp thuế TNDN và thuế VAT. Vì vậy, để đảm bảo thực hiện công bằng, bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế, bao quát đầy đủ nguồn thu từ hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số cần bỏ cụm từ “không có cơ sở thường trú tại Việt Nam”.
Bên cạnh đó, quy định pháp luật hiện hành mới chỉ quy định một số trường hợp khai thay, nộp thay cho các hộ, cá nhân kinh doanh TMĐT bao gồm tổ chức hợp tác kinh doanh với cá nhân, tổ chức trong nước là đối tác của nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam thực hiện chi trả thu nhập từ sản phẩm, dịch vụ nội dung thông tin số cho cá nhân theo thỏa thuận với nhà cung cấp nước ngoài.
Đối với mô hình kinh doanh TMĐT thông qua sàn - mô hình kinh doanh phổ biến nhất hiện nay, theo Bộ Tài chính, quy định hiện hành mới chỉ quy định sàn trong nước có trách nhiệm cung cấp thông tin của các tổ chức, cá nhân kinh doanh thông qua sàn, qua đánh giá tổng thể, thông tin sàn cung cấp còn chưa đầy đủ và chưa sát thực tế phát sinh, do đó cần giải pháp quản lý hiệu quả, căn cơ hơn. Về việc trực tiếp khai thuế đối với các hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có phát sinh hoạt động kinh doanh TMĐT pháp luật hiện hành chưa có quy định riêng mà áp dụng chung quy định như đối với hộ, cá nhân kinh doanh truyền thống.
Do đó, cần bổ sung quy định về các trường hợp khai thuế thay, nộp thuế thay cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có phát sinh hoạt động kinh doanh TMĐT và việc trực tiếp khai thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có phát sinh hoạt động kinh doanh TMĐT để cải cách thủ tục hành chính, tập trung đầu mối kê khai, đáp ứng việc kê khai, nộp thuế phù hợp với đặc thù của hoạt động kinh doanh TMĐT, đồng thời mở rộng nguồn thu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung tại khoản 4 Điều 42 về nguyên tắc khai thuế, tính thuế.
Đồng thời, đề xuất sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 90 để đảm bảo bao quát hết các trường hợp (liên quan đến sử dụng hóa đơn điện tử của các tổ chức, cá nhân, nhà cung cấp ở nước ngoài kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số) và phù hợp với thực tế nguyên tắc lập, quản lý, sử dụng hóa đơn điện tử.
Bổ sung trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan quản lý căn cước
Tại Dự thảo sửa đổi Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính cũng đề xuất bổ sung trách nhiệm cung cấp thông tin đối với cơ quan quản lý căn cước phục vụ cho việc sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế. Luật hoá quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin của các sàn giao dịch TMĐT.
Theo Bộ Tài chính, pháp luật hiện hành đã quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông tin người nộp thuế, tuy nhiên chưa có quy định cụ thể đối với Cơ quan quản lý căn cước, do vậy đã làm tăng thủ tục hành chính, cũng như chưa khai thác tối đa số định danh cá nhân thay cho mã số thuế, đồng thời chưa chủ động khai thác thông tin từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ cho việc sử dụng số định danh cá nhân thay cho mã số thuế.
Do đó, cần thiết phải bổ sung vào khoản 2 Điều 98 về trách nhiệm cung cấp thông tin đối với Cơ quan quản lý căn cước. Đồng thời, để có thể quản lý hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh TMĐT, cần thiết phải bổ sung cơ chế để thu thập thông tin từ các tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch TMĐT và tổ chức cung cấp dịch vụ logistic hỗ trợ cho hoạt động TMĐT. Qua đó nhằm xây dựng, làm giàu cơ sở dữ liệu về TMĐT phục vụ công tác quản lý thuế, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế, chống thất thu thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT, đặc biệt là với các nhóm đối tượng có tính ẩn danh cao như các tổ chức, cá nhân kinh doanh trên sàn TMĐT, mạng xã hội.