Ngân hàng ngoại làm được gì sau 3 năm đối xử bình đẳng?

Sự khác biệt 3 năm trở lại đây đã được dỡ bỏ mạnh mẽ thể hiện qua sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài, chi nhánh, phòng giao dịch… trên cả nước khi nước ta thực hiện cam kết gia nhập WTO. Trong quãng thời gian đó, các ngân hàng ngoại đã làm tuy chưa nhiều điều nhưng tạo được dấu ấn đáng kể tại Việt Nam.

Hạn chế trước khi gia nhập WTO

Giám đốc Điều hành Công ty Luật BASICO, luật sư Trần Minh Hải cho biết, trước khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hiện diện hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được thực hiện theo Luật các TCTD năm 1997, được sửa đổi bổ sung năm 2004 và các Nghị định liên quan của Chính phủ, quy định của NHNN.

Trong thời gian đó, ngân hàng có nguồn gốc trong nước, nước ngoài có sự phân biệt rất rõ ràng, đối với các TCTD. Cách sắp xếp kết cấu từ một văn bản luật cho thấy sự phân biệt còn đi qua ranh giới của nguyên lý quốc tịch pháp nhân, có sự phân biệt đối xử tương đối rõ giữa TCTD có vốn đầu tư nước ngoài và vốn trong nước.

Về phạm vi hoạt động và loại hình dịch vụ ngân hàng, các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được cung cấp hầu hết các loại hình dịch vụ ngân hàng như: cho vay, nhận tiền gửi, cho thuê tài chính, kinh doanh ngoại tệ, các công cụ thị trường tiền tệ, các công cụ tài chính phái sinh, môi giới tiền tệ, quản lý tài sản, cung cấp dịch vụ thanh toán, tư vấn và thông tin tài chính. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mở các điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh nhưng được phép lắp đặt và vận hành các máy giao dịch tự động (ATM) và phát hành thẻ tín dụng như các ngân hàng trong nước. Về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, các TCTD nước ngoài được phép nắm giữ tối đa 30% vốn điều lệ của ngân hàng trong nước.

Theo quy định của NHNN trước thời điểm gia nhập WTO, thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mở điểm giao dịch ngoài địa điểm ghi trong Giấy phép dưới bất kỳ hình thức nào, ngoại trừ việc đặt máy rút tiền tự động (ATM). Ngay cả việc đặt máy ATM, đặt và sử dụng các thiết bị ngoại vi phục vụ thanh toán thẻ tín dụng, thẻ thanh toán, thanh toán không dùng tiền mặt, cũng chỉ được thực hiện theo quy định liên quan của pháp luật và hướng dẫn của Thống đốc NHNN.

Luật sư Hải cho biết: “Thời kỳ này, đối với cộng đồng các ngân hàng nước ngoài hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức Chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Những yếu thế hiển hiện về phát triển mạng lưới, huy động vốn, cộng thêm sự gia tăng cạnh tranh cả về yếu tố công nghệ trong phát triển mạng lưới ATM, điểm chấp nhận thẻ của các NHTM trong nước, nên khó có thể nói các ngân hàng nước ngoài có nhiều cơ hội trong cạnh tranh khai thác thị phần tại Việt Nam”

Ngân hàng ngoại làm được gì sau 3 năm đối xử bình đẳng? - Ảnh 1

 

Bộ mặt mới sau WTO

Việt Nam cam kết bảo đảm áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc, đối xử quốc gia đầy đủ cho các ngân hàng nước ngoài theo từng giai đoạn. Trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, Việt Nam đã cam kết mở cửa các dịch vụ như nhận tiền gửi, cho vay, thuê mua tài chính, bảo lãnh tín dụng, ngoại hối… Mặc dù thị phần hoạt động còn khá khiêm tốn ( 10%-15 %) nhưng sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tài chính đã có vị trí quan trọng trong hệ thống TC-NH Việt nam, bởi lẽ: thứ nhất, các ngân hàng có tiềm lực tài chính mạnh ; thứ hai, là kênh truyền dẫn công nghệ ngân hàng hiện đại ; thứ ba, kinh nghiệm quản trị ngân hàng tiên tiến, và thứ tư, bổ sung nguồn tài chính không nhỏ cho TTTC VN. Không đợi đến khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn lĩnh vực ngân hàng, nhiều ngân hàng nước ngoài đã tham gia vào thị trường tài chính Việt Nam thông qua việc góp vốn vào các ngân hàng nội địa, thông qua các ngân hàng nội để tiến sâu hơn và vững chắc hơn vào thị trường Việt Nam

Các ngân hàng tồn tại sự hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức văn phòng đại diện, thì văn phòng đại diện chỉ được thực hiện các chức năng liên lạc, nghiên cứu thị trường, xúc tiến các dự án đầu tư của TCTD nước ngoài tại Việt Nam và thúc đẩy, theo dõi việc thực hiện các hợp đồng, thỏa thuận ký giữa TCTD nước ngoài với các tổ chức tại Việt Nam. Đối với các ngân hàng không có hiện diện thương mại, hoạt động kết nối khách hàng tại Việt Nam giới hạn ở các dịch vụ cung cấp, tư vấn thông tin, công nghệ tài chính…

Theo nhận định của Luật sư Hải: “có thể thấy rằng trước và sau WTO, sự biến đổi của hệ thống ngân hàng nước ngoài trong hoạt động đầu tư vào Việt Nam chưa có dấu hiệu đột biến đáng chú ý. Ngành ngân hàng vốn là huyết mạch của nền kinh tế, có tác động đến mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Chính vì lẽ đó, ngay cả WTO cũng không can thiệp vào việc các quốc gia thành viên ứng dụng những quy cách, chuẩn mực hành xử riêng để điều chỉnh, quản lý lĩnh vực ngân hàng. Miễn là sự đối xử theo đúng cam kết không phân biệt giữa trong và ngoài nước, thì sẽ là phù hợp với các cam kết WTO”.

Điểm hạn chế chính của ngân hàng ngoại trước đây là hạn chế về mở hệ thống ATM và nhận nhận tiền gửi bằng tiền đồng cho những cá nhân không có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Gần đây những chiếc máy rút tiền tự đô%3ḅng ATM của các ngân hàng ngoại như ANZ, HSBC xuất hiê%3ḅn ngày càng nhiều trong khu vực trung tâm TPHCM. Không giống như trước, máy ATM của ngân hàng ngoại chỉ được đặt ở cạnh hô%3ḅi sở chính, bây giờ họ có thể đặt ở nhiều nơi. Cùng với viê%3ḅc mở rô%3ḅng mạng lưới, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài dần lấn lướt các đồng nghiê%3ḅp nô%3ḅi địa, đặc biê%3ḅt trong tăng trưởng lợi nhuâ%3ḅn, họ đang để sau lưng mô%3ḅt khoảng cách khá xa với các ngân hàng cổ phần. Sau WTO tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động của nhóm ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài không cao nhưng chắc chắn, ổn định hơn.

Hiện nay, tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động được duy trì, các ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài gia tăng đáng kể thị phần về vốn chủ sở hữu để chuẩn bị cho việc mở rộng hoạt động trong thời gian tới. Đặc biệt, tỷ lệ nợ xấu của khối này lại rất thấp, cho thấy năng lực quản trị rủi ro, cũng như khả năng lựa chọn các dự án hiệu quả để tài trợ tín dụng.

Theo báo cáo của NHNN cho biết, đến cuối năm 2013 vốn điều lệ của toàn hệ thống là 423,98 nghìn tỷ đồng, trong đó, NHNN đã chấp thuận cho 13 TCTD và 03 chi nhánh nước ngoài đề nghị tăng vốn điều lệ với số tiền 30.718,8 tỷ đồng và 110 triệu USD. Nhóm ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài đã có sự tăng trưởng 26,92% về tổng tài sản so với cuối tháng 12-2012. Đây là con số ấn tượng so với các năm trước.

Với mạng lưới tám chi nhánh và phòng giao dịch, một quỹ tiết kiệm tại hai thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cùng hai văn phòng đại diện tại Cần Thơ và Bình Dương, ANZ Việt Nam hiện cung cấp đầy đủ các dịch vụ ngân hàng thương mại bao gồm Dịch vụ Ngân hàng Bán lẻ và Quản lý Tài sản, Dịch vụ Tài chính Tiêu dùng, Dich vụ Tài chính Thương mại và Dịch vụ Ngân hàng Bán buôn.

Tuy hiện nay NHNN đã có  nhiều đổi mới về thể chế phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và thúc đẩy sự đổi mới, phát triển hệ thống ngân hàng, song khuôn khổ pháp lý, quản trị và quy chế an toàn hoạt động ngân hàng vẫn còn phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa để bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động trên nền tảng các chuẩn mực an toàn, hiệu quả hơn. Ngành ngân hàng đang quyết tâm tái cơ cấu theo chuẩn mực mới, trong đó phải nói đến mục tiêu thực hiện Basel II đến năm 2015 (đối với khoảng 10 ngân hàng) và đến năm 2018 (đối với tất cả các NHTM).

Theo báo Đầu tư

KinhDoanhNet

Cùng Chuyên Mục