Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia chỉ rõ đến tháng 7/2014, lãi suất tiền gửi VNĐ bình quân là 5,53%/năm, giảm 0,6% so với đầu năm. Trong khi đó, lãi suất cho vay bình quân vẫn ở mức khoảng 10,08% năm, chỉ giảm 0,25%. Ủy ban này cũng khuyến cáo lạm phát ổn định như hiện nay sẽ là cơ sở để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có thể hạ thêm lãi suất.
Lãnh đạo một NH thương mại cho biết lợi nhuận của NH chủ yếu vẫn từ huy động để cho vay. Với trần lãi suất huy động hiện nay do NHNN quy định là 6%/năm, NH thương mại có thể đưa ra lãi suất huy động 7%/năm (kỳ hạn 6 tháng đến dưới 12 tháng) nhưng lãi suất cho vay phải hơn huy động ít nhất là 3% tức là lãi huy động khoảng 10% mới bảo đảm duy trì hoạt động. Lãi suất cho vay được tính bằng lãi suất cơ sở cộng với biên độ. Trong đó, lãi suất cơ sở được coi là điểm hòa vốn của NH, được tính bằng lãi suất huy động cộng với chi phí hoạt động, còn biên độ là lợi nhuận của NH.
Chi phí hoạt động của NH cùng với các khoản dự trữ bắt buộc, hay trích lập dự phòng rủi ro chiếm khoản một nửa so với mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay.
Về mặt lý thuyết, khi lạm phát thấp, ổn định thì hoàn toàn có cơ sở để giảm lãi suất. Tuy nhiên, hiện nay khó giảm lãi suất do nợ xấu đang tăng trở lại, quản trị hệ thống NH trong tái cấu trúc rất tốn kém. Hơn nữa, NH phải giữ biên lợi nhuận nhất định, tín dụng không đẩy ra được nên phải tiếp tục giữ chênh lệch lãi suất cao để bảo đảm lợi nhuận.
Nhưng nghịch lý ở đây là nửa đầu năm 2014, tín dụng toàn ngành ngân hàng tăng 3,52% trong khi chỉ tiêu toàn ngành từ 12 -14%, tức là các ngân hàng cần tăng cho vay trong nửa cuối năm hay nói cách khác các ngân hàng cần giảm lãi suất để tăng tín dụng.
Ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đông Á (DongA Bank), cho rằng nợ xấu chính là lực cản lớn nhất đối với mục tiêu giảm lãi suất cho vay. Các NH bán nợ xấu cho Công ty Quản lý tài sản (VAMC) phải trích lập dự phòng ít nhất 20% trong 5 năm khiến chi phí đội lên rất lớn, gây thêm sức ép cho lãi suất. Tính đến cuối năm 2013, tổng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng đã trích chưa sử dụng của DongA Bank là hơn 930 tỉ đồng - những chi phí này đều "đổ" vào lãi suất.
Lãnh đạo các NH cũng nhìn nhận giảm lãi suất cho vay là rất khó, buộc phải trông chờ vào việc tiết kiệm tối đa chi phí, tăng cường thu dịch vụ khác và giảm chỉ tiêu lợi nhuận. Nếu phải dùng đến biện pháp giảm tiếp lãi suất huy động để giảm lãi suất cho vay, các NH sẽ rơi vào bẫy thanh khoản.
Các ngân hàng mặc dù có các gói tín dụng ưu đãi khi lãi suất cho vay chỉ bằng hoặc có khi thấp hơn lãi huy động. VPBank đang chào khách hàng vay tiêu dùng lãi suất chỉ 5%/năm cho 12 tháng đầu tiên, tại ACB là 8,9%/năm cho ưu đãi cho năm đầu tiên.
Ngân hàng HDBank cũng có gói lãi suất cho vay chỉ 6,8%/năm cho 03 tháng đầu, và mức 9%/năm cho 12 tháng. ABBank cho vay chỉ 8,5%/năm cho 12 tháng đầu tiên.
Dĩ nhiên, bản chất của những mức lãi suất thấp đó cũng cần xem xét kỹ. Thông thường, đó chỉ là mức ưu đãi khởi đầu, áp trong thời gian rất ngắn như trong 1-3 tháng đầu tiên; và nó không đủ để đại diện cho quá trình vay. Lãi suất thấp thường được áp dụng cho các khách hàng cá nhân vay vốn dài hạn, 3-5 năm. Mức lãi suất sau thời điểm ưu đãi với biên độ cam kết điều chỉnh, mới phản ánh đúng chi phí phải trả của người vay vốn. Với mức lãi suất thấp cho 1 năm đầu tiền, lãi suất cho các năm tiếp theo được tính theo công thức: lãi suất tiết kiệm 12 tháng cộng với biên độ từ 3-4%/năm. Tính ra, mức lãi suất các năm tiếp theo cũng từ 12-13%/năm.
Q.H (Tổng hợp)