Giảm thuế nhập khẩu 3 mặt hàng ô tô
Bộ Tài chính trình Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi của các mặt hàng ô tô thuộc mã HS 8703.23.63, 8703.23.57, 8703.24.51.
Chính sách thuế hiện hành đối với Mã HS 8703.23.63: Ô tô chở người có khoang chở hành lý chung và ô tô thể thao nhưng không kể ô tô thể thao, loại 4 bánh chủ động, dung tích xi lanh trên 2000cc nhưng không quá 2500 cc. Tổng kim ngạch nhập khẩu (KNNK) năm 2024 là 40,8 triệu USD, trong đó KNNK chịu thuế MFN là 11,8 triệu USD (chiếm 29%) và KNNK FTA là 29 triệu USD (chiếm 71%). Thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 64%. Cam kết trần WTO là 70%. Thuế TTĐB là 50%, thuế BVMT không thu, thuế GTGT là 10%.
Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với ô tô thuộc 3 mã hàng HS 8703.23.63, 8703.23.57, 8703.24.51.
Mã HS 8703.23.57: Ô tô kiểu sedan có dung tích xilanh trên 2000 cc nhưng không quá 2500cc. Tổng KNNK năm 2024 là 13,23 triệu USD, trong đó không có KNNK chịu thuế MFN và KNNK FTA là 13,23 triệu USD (chiếm 100%). Thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 64%. Cam kết trần WTO là 70%. Thuế TTĐB là 50%, thuế BVMT không thu, thuế GTGT là 10%.
Mã HS 8703.24.51: Ô tô khác loại 4 bánh chủ động. Tổng KNNK năm 2024 là 71,29 triệu USD, trong đó KNNK chịu thuế MFN là 8,1 triệu USD (chiếm 11,36%) và KNNK FTA là 63,19 triệu USD (chiếm 88,64%). Thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 45%. Mức cam kết trần WTO là 47%. Thuế TTĐB là 90%, 110%, 130%, 150% tùy theo dung tích xi lanh; thuế BVMT không thu, thuế GTGT là 10%.
Về tình hình sản xuất trong nước, Bộ Tài chính cho biết, tính đến năm 2024, quy mô thị trường ô tô Việt Nam khoảng 510.000 xe/năm, trong đó sản lượng sản xuất, lắp ráp trong nước là 338.000 xe/năm và sản lượng nhập khẩu là hơn 173.000 xe/năm (nhập khẩu chủ yếu từ các nước ASEAN đang áp dụng mức thuế suất FTA là 0%). Quy mô thị trường ô tô Việt Nam còn nhỏ so với các nước trong khu vực. Theo Bộ Công Thương, dự kiến đến năm 2030, tổng tiêu thụ ô tô vào khoảng 1 đến 1,1 triệu chiếc. Như vậy, trong 05 năm tới phải đạt mục tiêu tiêu thụ gấp đôi so với hiện tại.
Các doanh nghiệp trong nước hiện nay chủ yếu sản xuất, lắp ráp các loại xe có dung tích xi lanh thấp (từ 2.000cc trở xuống) để phục vụ đa số nhu cầu của người dân Việt Nam.
Đề xuất giảm thuế nhập khẩu xuống 32%
Kim ngạch nhập khẩu của cả 03 dòng thuế ô tô này đều nhập khẩu chủ yếu từ các quốc gia có mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt là Thái Lan (thuộc Hiệp định ATIGA), Nhật Bản (thuộc Hiệp định CPTPP).
Theo đó việc giảm thuế MFN có thể tác động làm tăng dịch chuyển thương mại, người dân tiếp cận được các sản phẩm xe cao cấp có mức giá phù hợp hơn, tuy nhiên thực tế chuyển dịch thương mại đối với ô tô còn phụ thuộc vào thị hiếu, giá cả, dịch vụ sau bán hàng, mức tiêu hao nhiên liệu và ngoài ra, xe còn là tài sản lớn nên người dân Việt Nam có thói quen mua xe theo loại phổ cập. Đồng thời, trong nước cơ bản không sản xuất các dòng xe dung tích xi lanh cao này.
Theo đó, Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế nhập khẩu mặt hàng ô tô mã HS 8703.23.63 và 8703.23.57, từ 64% xuống 32% gần bằng mức thuế suất cam kết CPTPP năm 2025 và mã HS 8703.24.51 từ 45% xuống 32% để thống nhất mức thuế của 3 mã HS trên.
Thực hiện theo phương án này dự kiến giảm số thu ngân sách nhà nước khoảng 8,81 triệu USD tính theo KNNK chịu thuế MFN năm 2024, nhưng mức này có thể thấp hơn nếu số lượng nhập khẩu tăng lên từ các nước MFN thay cho nhập từ ASEAN.