Có những niềm vui, nỗi buồn, những thất bại, thành công, những bài học xương máu, cả sự mất mát đớn đau mà ông âm thầm chịu đựng. Đầu năm Ất Mùi, nhà tình báo Trần Quốc Hương, tức Mười Hương, chậm rãi kể, từng hồi ức với nhóm PV Báo Kinh doanh & Pháp luật.
Theo ông kể thì nơi ông sinh ra và lớn lên là một làng nhỏ thuộc huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Cũng như nhiều làng quê nhỏ ở đồng bằng Bắc Bộ, thời Pháp thuộc quê ông nghèo lắm. Nghèo đến nỗi có thời điểm cả làng tha phương, cầu thực. Cứ mỗi mùa nước về thì ở làng chỉ còn đàn bà và trẻ con, còn đàn ông và thanh niên bỏ làng ra đi làm thuê ở các nơi khác. Xuất thân từ một làng quê như vậy, nên ngay từ tuổi thiếu thời, cũng như nhiều người khác, ông sớm giác ngộ cách mạng. Giờ đây, ở vào cái tuổi ngoài chín mươi, song những gì diễn ra trong ký ức tuổi thơ và những ngày tháng hoạt động cách mạng ông vẫn nhớ khá chi tiết.
“Bác Hồ đặt cho tên biệt danh nhớ đời”
“Hương chủ quan” - Dịp ấy, Bác đã không nói nhiều trước khuyết điểm của tôi, Bác chỉ nhẹ nhàng đặt cho tôi biệt danh để đời, ngắn gọn, không thể quên như thế. Căn nguyên bắt nguồn từ lần di chuyển căn cứ lên chiến khu Việt Bắc. Hồi đó anh Nguyễn Lương Bằng giao cho tôi nhiệm vụ di dời kho muối. Anh bảo Bác Hồ đã căn dặn chúng ta - Kháng chiến tất nhiên phải lâu rồi, nhưng bao lâu thì ta chưa biết được. Các chú cứ phải đề phòng từ 5-10 năm, phải làm thế nào để đến khi thắng lợi bộ đội và nhân dân Việt Bắc vẫn có muối mà dùng. Tôi lúc ấy đang giữ kho muối khoảng 2,4 tấn. Bác bảo riêng tôi: “Chú phải đưa hết số muối này đi. Vàng bạc để lại cũng được. Việt Bắc mà không có muối là không sống được”. Sau đó, tôi đưa kho muối lên Xuân Mai, Hòa Bình an toàn, anh Bằng đòi đi kiểm tra kho. Lúc về, thay vì đợi trời tối, tôi nghĩ rất đơn giản – Tây mà sang bên mình gặp xứ nóng chịu không nổi thế nào cũng phải “Lasieste” (ngủ trưa), đoạn đường chỉ có 7 cây số là đồng trống. Mình lợi dụng lúc này đi là an toàn nhất. Anh Bằng tính rất cẩn thận, không hiểu sao lúc ấy lại tin tưởng tôi, đồng ý ngay. Mới đi được 3 cây số, mọi người phát hiện 2 chiếc máy bay cổ ngỗng đang rà theo sát nút. Vậy là mạnh ai nấy nhảy ra khỏi xe vừa kịp thoát khỏi loạt liên thanh đầu tiên. Tôi định thần lại, nhìn ra khoảng xa thấy cả vạt rừng lau đang nổ lốp đốp, anh Bằng thì đã lên đến đường, mặt mày nám khói đen kịt, trầy xước. Tôi mượn một chiếc xe của anh em ở trạm gần đấy đưa anh Bằng về chỗ Bác. Thật sự tôi quá sợ, không dám vào gặp Bác. Biết không thể nào tránh được, tôi mon men đến gần anh Vũ Kỳ, thư ký của Bác. Anh Kỳ dọa đùa: “Bác hôm qua giận lắm đấy!” Tôi lại tìm anh Kháng, đội trưởng Đội cận vệ lúc nào cũng ở cạnh Bác để hỏi thăm. Anh thuật lại rằng hôm qua anh Cả về, chỉ nghe Bác nói vọng ra câu: “Thế chú lớn hay Hương nó lớn!”. Vậy là tôi yên chí. Tối đó, tôi ở ngoài rót nước uống nhưng cố tình chạm ly tách để Bác lên tiếng. Bác hỏi: “Ai vậy?”. “Dạ con! Hương đây Bác!” Bác hỏi: “Tại sao chú đi với anh Cả mà anh Cả về từ tối hôm qua, đến giờ chú mới về”. Tôi càng ấp úng, Bác càng truy cho ra. Cuối cùng Bác đưa cho tôi một ly nước cam và chiếc quạt bảo có nóng thì quạt đi cho mát “Chú là chú chủ quan lắm nhé. Suýt nữa là cái sảy nảy cái ung. Nếu anh ấy bị thương hay chết thì có phải thiệt hại biết bao nhiêu”. Tôi xin phép Bác về, Bác cho tôi hai quả cam và bảo ăn một quả, còn một quả tạt qua nhà cho con rồi dặn - “Chớ có chủ quan nữa đấy”. Tôi đặt tên cho chú là “Hương chủ quan”. Tôi nhớ mãi câu Bác nói “Cái sảy nảy cái ung” và biệt danh nhớ đời Bác đã đặt cho tôi. Phải đến 10 năm sau khi tôi ra tù và có dịp ra Bắc. Bác vẫn nhớ biệt danh đã đặt cho tôi, biết rõ mọi chuyện vì sao tôi bị địch bắt, Bác lại hỏi: “Chú xem kỹ mình có gì chủ quan không?”
Năm ngón tay trong một bàn tay
Làm tình báo có nghĩa là bí mật. Tôi nhớ có lần phỏng vấn ông cố vấn Vũ Ngọc Nhạ, một trong những chiến sĩ tình báo do ông Mười Hương trực tiếp chỉ đạo, ông chỉ lặp đi lặp lại 2 từ: “Bí mật, bí mật”. Hai từ này cũng là bài học đầu tiên Bác Hồ đã dạy khi ông bắt đầu làm nhiệm vụ tình báo. Là người được giao chỉ huy mạng lưới tình báo chiến lược, hơn ai hết, ông hiểu rõ giá trị của 2 từ “Bí mật”. Thế mạnh của từng người, khả năng làm tình báo và phẩm chất con người được ông đánh giá nhận xét tinh tế để giao việc. Với điệp viên Lê Hữu Thúy, có trình độ, quen biết nhiều quan chức cao cấp nên ông Mười Hương hướng Thúy chui sâu vào lực lượng Hòa Hảo. Còn Vũ Ngọc Nhạ khi vào Nam hoạt động tình báo đã có sẵn trong người giấy chứng nhận là trung úy tự vệ của Phát Diệm trong lực lượng công giáo. Ông Mười Hương đã chỉ đạo ông Nhạ thân thiết với cha Lê Hữu Từ, từ đó thiết lập mối quan hệ thân cận với gia đình họ Ngô. Ông Nhạ trở thành “ông cố vấn”, một “linh mục” ngoan đạo được những người họ Ngô tin dùng. Ông Mười Hương cũng đã tiên liệu và đánh giá được “số phận” của tình báo viên Phạm Xuân Ẩn. Ông Ẩn thoạt đầu làm thư ký ở nhà đoan, chỉ đưa những loại tin đối với quân báo là quý giá nhưng đối với tình báo chiến lược thì ít có giá trị... Ông ẩn rất giỏi tiếng Anh nên sau chuyển sang làm ở cơ quan viện trợ của Mỹ. Ông Mười Hương suy đi tính lại nếu để ông Ẩn hoạt động kiểu này không ổn, nên hướng ông Ẩn sang làm nghề tự do. Lại nhớ lời dạy của Bác “Báo chí đệ tứ quyền” nên cử ông Ẩn đi học báo chí tại Mỹ. Ông Mười Hương đã dặn dò ông Ẩn trước khi lên đường, một câu đầy tính chiến lược: “Phải tìm hiểu thật kỹ văn hóa Mỹ, biết được cái hay của người Mỹ, viết như nhà báo Mỹ, biết được cái hay của người Mỹ, viết như nhà báo Mỹ, biết được cái hay của người Mỹ, viết như nhà báo Mỹ, vậy mới nhập vai tốt được”.

Tổng biên tập Báo Kinh doanh & Pháp luật Lưu Vinh (trái) và nhà tình báo Trần Quốc Hương, tức Mười Hương
Vai trò trở thành người tin cậy trong gia đình họ Ngô của Phạm Ngọc Thảo đã được ông Mười Hương cân nhắc nên đã có hàng chục câu hỏi của phóng viên các báo rằng ông đã chỉ đạo như thế nào để những điệp viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Bao giờ ông cũng nhẹ nhàng: “Tự các cậu ấy đấy chứ. Công lao là ở bản thân mỗi người. Tôi chỉ là người chỉ tay năm ngón thôi mà!”. Và bao giờ ông cũng bắt đầu từ Nhạ, hoặc Ẩn rồi Thảo... hiếm khi nói về chính bản thân mình.
Qua lời kể của ông, những nhà tình báo xuất sắc của chúng ta, ví như năm ngón tay xòe ra năm hướng dưới sự “chỉ trỏ” của ông đã len sâu vào đầu não của địch, nhập vai giỏi đến độ “địch trọng” còn “dân thù”. Mạng lưới tình báo này đã thu nhập được rất nhiều thông tin tình báo chiến lược phục vụ cho trung ương, lập nên nhiều chiến công cho cách mạng. Cẩn trọng trước khi chỉ dẫn đường đi nước bước cho Phạm Ngọc Thảo. Đó là dựa vào lý lịch gia đình, khi tiếp cận với người họ Ngô bày tỏ quan điểm rõ ràng - chống Cộng nhưng chống thế nào để lòi ra Việt Minh. Và ông đã “chỉ trỏ” rằng Phạm Ngọc Thảo phải đóng cho được vai người quốc gia, tham gia kháng chiến nhưng không cộng sản. Ông Thảo đã làm được điều đó thành công đến độ đồng sự trong phủ ganh ghét, ngay cả cơ sở của ta cũng lầm tưởng Thảo đúng là “tay sai”, phản cách mạng. Đó cũng là một lợi thế khi làm nhiệm vụ bí mật, chứng tỏ ông đã nhập vai quá đạt, song đó cũng là nỗi cay đắng ông âm thầm chịu đựng mà gần như chỉ ông Mười Hương và lãnh đạo cấp cao hiểu rõ.
Một chút đời riêng thầm lặng
Dù ít dù nhiều, ai cũng hiểu người hoạt động tình báo luôn phải gánh chịu thiệt thòi, hi sinh mất mát. Khi nhắc lại những chiến sĩ tình báo từng hoạt động với mình, bao giờ ông cũng nhắc đến điều này với tất cả những cảm thương, chia sẻ cùng họ. Nhưng với riêng ông, ít ai biết rằng ông cũng đã phải gánh chịu một tổn thất to lớn trong thời hoạt động của mình mất một người bạn đời thân thiết. Vì nhiệm vụ, ngày ông bỏ ra đi, ông đã không được phép tiết lộ với ai ngay cả vợ con mình. Khi bước chân ra khỏi nhà, ông không dám đợi bà về, chỉ lặng lẽ vác túi lên vai. Giây phút bịn rịn nhất của lần ra đi không biết bao lâu, sống chết thế nào với ông lúc ấy chỉ là vòng tay bé bỏng của đứa con trai lớn và đôi mắt với hai vệt nước mắt đọng dài trên má. Vậy là vợ chồng xa cách, không tin tức, không hiểu rõ căn nguyên. Ông thấu hiểu nỗi đau lúc bà về đến nhà mà chồng đã đi mất dạng, nhưng rồi phải chôn chặt nó trong lòng, không dám liên lạc vì nguyên tắc bí mật.
Ở trong nhà tù Mỹ - Diệm, bị chúng đày đọa, đớn đau khổ sở, thương tích khắp người nhưng trong ông, ngoài lòng trung thành với cách mạng, một phần trái tim ông vẫn là gia đình. Ông kể: “Lúc cận kề cái chết, điều mà tôi day dứt nhất là mình đã làm tròn bổn phận với đất nước nhưng lại là người chồng không tròn trách nhiệm với vợ, con. Cái ánh mắt của đứa con trai với hai vệt nước mắt dài trên má cứ hiện lên trong tâm trí tôi đau đáu. Chính đôi mắt ấy của con đã khiến tôi phải quyết tâm chịu đựng, sống còn để đoàn tụ với những người thân yêu nhất của mình. Và riêng với con trai mình, có thể ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào mắt nó. Ra tù, ông trở về miền Bắc. Đứa con gái nhỏ lúc ông đi còn bò lẫm chẫm thấy ông vội chạy vào trong kêu ầm lên: “Bà ngoại ơi, có ông nào tự nhiên tới nhận là bố con!”. Đoàn tụ nhưng nhân duyên với bà đã không thể hàn gắn được. Số phận đã khiến ông và bà xa nhau dù ông cố tâm níu kéo, muốn chuộc lại lỗi lầm ngày trước. Ông mất bà và cam chịu nỗi đau ấy trong lòng suốt nhiều năm cho đến khi ông vào Nam và tạo cho mình một mái ấm mới với hạnh phúc giản đơn.
Trước lúc chia tay với chúng tôi, ông cười sảng khoái. Cứ ngỡ một con người có đầu óc chiến lược, người thầy của những nhà tình báo sẽ đúc kết về nghề tình báo của mình với những điều vĩ mô, to tát, thật khó ngờ ông đã nói ra một điều giản dị, rất đời thường cũng giống như chính câu ông hay nói mỗi khi nhắc đến kỉ niệm mấy mươi năm làm nghề tình báo của mình... “Tình báo có nghĩa là cái gì cũng phải bình thường. Làm được chuyện bình thường mới là tình báo!
Lưu Vinh