Thứ hai, theo ông Bình: “Nhu cầu mua bán của hơn 4.000 cư dân tại 6 toà nhà của KĐT Đại Thanh là rất lớn. Trước đây khi chưa có chợ tạm, xung quanh các toà nhà, người dân tập trung buôn bán đủ các kiểu chợ. Các lực lượng chức năng đuổi bắt suốt ngày… Điều này đã khiến người dân bức xúc rất nhiều. Tuy nhiên, từ khi Ban quản lý xây dựng 47 ki ốt, người dân về đây tập trung buôn bán, Ban quản lý vừa thu được tiền thuê lại vừa quản lý được họ, tránh gây ra tình trạng lộn xộn, mất trật tự an ninh đô thị”.
“Bên cạnh đó, chợ tạm đã đáp ứng được nhu cầu về công ăn việc làm của người dân. 70 phần trăm người dân xã Tả Thanh Oai vào đây buôn bán, 30% là người dân của khu đô thị” – ông Bình phân tích.
Khi được hỏi về mức giá từ vài chục đến vài trăm, thậm chí mức giá cao nhất lên tới 300 triệu đồng mà người dân đã bỏ ra để có thể sở hữu một ki ốt, ông Bình cho biết, chủ trương của ban quản lý là chỉ có cho thuê. Giá thuê mỗi ki ốt Ban quản lý quy định là 2,5 triệu đồng một tháng. Tuy nhiên, khi Ban quản lý phân những ki ốt cho người dân, họ không có nhu cầu, hoặc vì lý do nào đó mà họ nhượng lại cho người khác, thì cái này hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của ban. “Ban không cho phép mua bán, ban chỉ cho phép thuê, còn việc mua bán trên thị trường là do người dân thoả thuận với nhau, chúng tôi chưa được chứng kiến, cũng chưa biết đích xác một trường hợp nào cả” – Ông Bình khẳng định.
Ưu tiên “người nhà”
Như vậy, căn cứ theo lời của ông Bình thì Ban quản lý dự án Đại Thanh hoàn toàn vô can đối với số tiền mà người dân đã bỏ ra để được quyền thuê ki ốt. Thế nhưng, khi được hỏi về những điều kiện để một người dân có thể được nhận thuê một ki ốt để kinh doanh thì câu trả lời của ông Bình đã khiến cho chúng tôi thực sự phải đặt câu hỏi nghi ngờ.
Theo đó, ông Bình cho biết, những người có nhu cầu thuê ki ốt trước hết là phải có đơn. Tuy nhiên, số lượng đơn đăng ký rất đông, trong khi đó, số lượng ki ốt lại có hạn. “Chính vì vậy, đương nhiên là chúng tôi cũng phải xem xét. Xem xét đến ai, xem xét đến những đối tác ngoại giao, bà con, con em của Ban”, “Tất nhiên cũng phải là người quen, người thân, cũng phải thế nọ thế kia, con em Chủ tịch, Phó Chủ tịch xã cũng có, rồi trên cấp trên cũng có, rồi bà con chung cư cũng có, nói chung là mối quan hệ quen chứ đơn thư để cả tập dày thế này làm sao giải quyết hết được” – ông Bình phân tích.
Một người nhận được quyền thuê ki ốt, đương nhiên là người đó phải có nhu cầu kinh doanh vì theo ông Bình nói thì họ đã có đơn đề nghị gửi lên lên ban. Thế nhưng, theo tìm hiểu của phóng viên Báo Kinh doanh và Pháp luật thì hầu hết những người dân buôn bán tại những ki ốt này không phải là người được quyền thuê đầu tiên. Họ đã phải mua lại quyền thuê ki ốt từ người khác với giá "cắt cổ" lên đến cả trăm triệu đồng.
Lật lại vấn đề, rõ ràng là những người được quyền thuê ki ốt này không có nhu cầu kinh doanh. Như vậy, họ viết đơn để xin được quyền thuê ki ốt làm gì nếu không phải là để “tận dụng thời cơ” thu về cả trăm triệu đồng tiền chênh nhờ chuyển nhượng sang tay ki ốt. Kiếm tiền “chưa bao giờ đơn giản hơn”! Tất cả chỉ cần có mối quan hệ “quen biết”! Trong khi đó, những người dân có nhu cầu thực nhưng không “thân thích” lại chịu biết bao nhiêu những thiệt thòi!
Hơn nữa, xem xét quyền thuê ki ốt dựa trên mối quan hệ “quen biết” như vậy mà việc chuyển nhượng sang tay lên tới cả trăm triệu đồng, Ban quản lý nói rằng “không biết” e rằng cũng khó có thể thuyết phục người dân!
Việc tự ý "vẽ quy hoạch chợ" sau đó để rồi xây dựng lại không phép và lợi dụng uy tín và lòng tin của hàng chục hộ dân để cho thuê trục lợi, điều này không chỉ để lại những hậu quả nêu trên mà còn chứa đựng dấu hiệu hình sự cần được cơ quan điều tra sớm vào cuộc xem xét làm rõ ?
Báo Kinh doanh và Pháp luật sẽ tiếp tục đăng tải bài viết tiếp theo vào ngày 18/9 tới đây, xin mời độc giả đón đọc.
Thuỳ Dương- Hồng Sơn
Mọi ý kiến, đóng góp của quý độc giả về bài viết xin vui lòng gọi số: 0912280207 hoặc email: bandockdpl@gmail.com |