Về cơ sở pháp lý quốc tế, tháng 10/2021, OECD đặt ra mức thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu 15% đối với các công ty đa quốc gia nhằm ngăn những công ty này chuyển lợi nhuận sang quốc gia có thuế suất thấp để tránh thuế.
Về cơ sở thực tiễn, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu dự kiến sẽ tác động sâu rộng đến tính cạnh tranh của môi trường đầu tư kinh doanh nước ta, cần kịp thời có giải pháp phù hợp. Đến nay, 142/142 nước thành viên của Diễn đàn hợp tác toàn cầu về chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) đã đồng thuận. Tại ASEAN, một số nước đã có kế hoạch áp dụng quy định thuế tối thiểu toàn cầu từ năm 2024.
Do đó, việc sớm áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam là cần thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam; đồng thời, việc nghiên cứu, bổ sung các hình thức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư mới trong bối cảnh thực thi thuế tối thiểu toàn cầu là cần thiết nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam trong giai đoạn tới.
Về 2 nội dung này, Thủ tướng giao Bộ Tài chính, Bộ KH-ĐT chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan tiếp thu tối đa ý kiến của Chính phủ, hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng 2 nghị quyết; gửi Bộ Tư pháp để thẩm định. Căn cứ ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, các bộ chủ trì tiếp thu, giải trình, hoàn thiện hồ sơ, trình Chính phủ.
Sau khi Chính phủ quyết nghị thông qua đề nghị xây dựng 2 nghị quyết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ trong tháng 7 để báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung dự án 2 nghị quyết nêu trên vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 và cho phép xây dựng dự thảo nghị quyết theo trình tự, thủ tục rút gọn, trình Quốc hội thông qua theo quy trình một kỳ họp (tháng 10/2023).
Thực tế, gần tới thời điểm áp dụng của các quy tắc trụ cột 2 về thuế tối thiểu toàn cầu, nhiều quốc gia đã và đang thể hiện những phản ứng nhanh và tích cực trong việc thực thi các quy tắc này. Xem xét ảnh hưởng của các quy tắc này đến các quốc gia, thì Việt Nam thuộc nhóm các nước nhận đầu tư (nhập khẩu vốn).
Trong cuộc chơi này, mỗi quốc gia đều có sự tự chủ nhưng đều phải chủ động để bảo về quyền lợi của chính mình vì không có cách nào để đứng ngoài cuộc.
Về vấn đề này, TS Cấn Văn Lực cho rằng để bù đắp một phần cho các đối tượng sẽ chịu tác động, Việt Nam cần có chính sách, biện pháp ứng xử phù hợp đối với 2 nhóm nhà đầu tư.
Đối với những nhà đầu tư FDI đang hoạt động tại Việt Nam (có thể có hỗ trợ về tiền thuê đất, cho phép tính một số khoản được khấu trừ thuế, đào tạo nguồn nhân lực, chi phí R&D, giải phóng mặt bằng, nhà ở công nhân...; nên áp dụng mức độ khác nhau với nhóm nhà đầu tư, loại dự án khác nhau).
Đối với những nhà đầu tư FDI sẽ vào Việt Nam từ đầu năm 2024 (có thể áp dụng một số chính sách hỗ trợ tương tự, thậm chí cao hơn đối với các lĩnh vực ưu tiên thu hút FDI).
“Khẩn trương ưu tiên kiện toàn và nâng cao năng lực công tác quản lý thuế, công tác cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh vì những công tác này ngày càng nhiều, ngày càng phức tạp, tinh vi, có tính hội nhập cao, xuyên biên giới, cạnh tranh”, ông Lực nói, và cho rằng thời gian còn rất ít, đòi hỏi rất khẩn trương, đồng bộ, đồng nhịp và vì cái chung, vì môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, trên tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ”.
VietnamFinance
In bài viết