Năm 2007 nhà nước ban hành nhiều chính sách vĩ mô nới lỏng để phát triển kinh tế làm cho chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển ngoại mục và cả những cú ngã ngựa đau. Chứng khoán Việt Nam năm này lần đầu tiên chạm mốc đỉnh 1.170,67 điểm cao nhất trong lịch sử 7 năm hình thành thị trường chứng khoán rồi lại có lúc có lúc tụt xuống đáy chỉ 883,9 điểm.
Đây cũng là khoảng thời gian mà giá cổ phiếu ngân hàng lên như diều gặp gió. Giá cổ phiếu Eximbank (EIB) trong tháng 2 đỉnh điểm lên tới 172.000 đồng, cổ phiếu Ngân hàng TMCP Đông Á (DongABank) còn vượt cả giá cổ phiếu Eximbank, đạt đến mức đỉnh 210.000 đồng. Thị trường giao dịch lúc này chỉ toàn thấy người hỏi mua mà không thấy ai bán. Một cổ đông nội bộ của Đông Á quyết định chuyển nhượng 5 triệu cổ phiếu ở mức giá này. Bán xong, ông nói “thị trường đang hưng phấn quá mức. Nó không thể chạy xa hơn nữa!”. Ông Kiều Hữu Dũng (hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị Sacombank - STB) nhận xét cổ phiếu ngân hàng Việt Nam đang cao hơn nhiều lần giá trị thật. Ở đây đã tiềm ẩn mối nguy hiểm về sự trượt giá dài trong thời gian sắp tới khi mà các ngân hàng mọc lên như nấm và ồ ạt phát hành cổ phiếu.
Cùng với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới giá các cổ phiếu đã tuột dốc bắt đầu từ thời điểm một quỹ đầu tư của Prudential “xả hàng”, bán hàng triệu cổ phiếu xung quanh giá 100.000.
Năm 2009 nhà nước ban hành chính sách kích cầu để khôi phục nền kinh tế làm tín dụng bứt phá mạnh mẽ. Năm tiếp theo lạm phát bùng phát dữ dội, tiền tệ bị thắt chặt. Thanh khoản các ngân hàng nhỏ bị lay động. Tiền cho vay không thu hồi kịp vì bất động sản gặp khó khăn. Để giải quyết thanh khoản, các ngân hàng chỉ còn cách nâng lãi suất tiết kiệm nhằm tìm nguồn huy động trong dân cư.
Trong thời gian đó việc NHNN mở sàn vàng và cho mở tài khoản vàng ở nước ngoài trực tiếp gây nên những “cơn sốt” thứ kim loại quý này làm biến động mạnh về tỷ giá trên thị trường. Lúc này lãi suất ngân hàng trên thị trường có nơi lên tới 20%. Lãi suất tiết kiệm vượt trần quy định xảy ra ban đầu ở một số ngân hàng, nhanh chóng lan ra nhiều nơi. Chuyện lách luật để trả thêm lãi cho người gửi thiên biến vạn hóa dưới nhiều hình thức.
Mặt khác thiếu vốn các ngân hàng nhỏ không trả các khoản vay liên ngân hàng đúng hạn làm nợ quá hạn liên ngân hàng tăng cao. Kể từ đó, chuyện có một không hai đã diễn ra và sau này trở thành luật bất thành văn: vay tiền liên ngân hàng cũng phải có tài sản thế chấp. Một số ngân hàng thế chấp ngoại tệ, vàng để vay tiền đồng. Có ngân hàng nhỏ đề nghị các thành viên liên ngân hàng khác cho họ vay đồng nội tệ trên cơ sở thế chấp hồ sơ vay vốn của khách hàng (những khách hàng có độ tin cậy và uy tín cao), nhưng bị từ chối.
Về câu chuyện ACB, sau khi mời ông Trần Xuân Giá đảm nhiệm chức Chủ tịch Hội đồng quản trị, ngân hàng đưa ra một mục tiêu tham vọng và tỉnh táo: đạt tỷ lệ 10% tổng vốn huy động toàn ngành. Nói đơn giản, nếu toàn bộ các ngân hàng huy động được 100 đồng, thì ACB phải huy động được 10 đồng trong số đó. ACB đánh giá trong tương lai gần cạnh tranh giữa các ngân hàng không nằm ở tăng trưởng tín dụng, không nằm ở dịch vụ, mà ở huy động vốn. Trên thực tế, những năm thắt chặt tiền tệ đã chứng minh họ không nhận định sai. Trong vòng 3-4 năm, tỷ lệ huy động vốn của ACB lúc đỉnh cao chiếm 10,4% tổng vốn huy động toàn ngành.
Mặc dù lãi suất tiết kiệm luôn thấp hơn một số ngân hàng, vốn huy động của ACB duy trì mức cao trong thời gian dài. Thay vì đẩy tín dụng, ACB dành một tỷ lệ vốn lớn kinh doanh liên ngân hàng. Trong năm đỉnh cao 2011, trong cơ cấu tài sản ACB có tới gần 81.500 tỷ đồng tổng tiền gửi và cho vay liên ngân hàng.
Vì vậy khi việc chây ì trả nợ dẫn đến nợ xấu liên ngân hàng xảy ra, ACB gặp khó khăn. Đầu ra cho dòng vốn bị thu hẹp.
Thời gian đó ông Lý Xuân Hải, nguyên Tổng giám đốc ACB cho biết, ban lãnh đạo chịu áp lực không nhỏ trong việc tìm đầu ra cho tiền đồng và việc ủy thác cho nhân viên ACB gửi tiền dưới hình thức tiết kiệm vào các ngân hàng khác được tính đến và thực hiện. Hàng chục ngàn tỷ đồng đã được gửi ở nhiều ngân hàng mà không có vấn đề gì cho đến khi “không may” “đụng” phải “thiên nga đen” Huyền Như tại ngân hàng VietinBank. Trước năm 2011, điều lệ của ACB và quy định pháp luật cho phép thực hiện nghiệp vụ này.
Có thể hiện nay nhìn dưới góc độ an toàn, mang tiền huy động đi gửi ở ngân hàng khác là không phù hợp với nguyên tắc kinh doanh ngân hàng nói chung, nhưng đặt trong bối cảnh những năm 2009-2011, hành động mang tính nhất thời của ACB đã ít nhiều làm luân chuyển vòng quay vốn và san sẻ thanh khoản, phân bổ lại thanh khoản cho không ít ngân hàng.
Nhìn rộng ra, chính sách thắt chặt tiền tệ đã áp dụng cho mọi ngân hàng mà không tính đến thanh khoản của từng ngân hàng hay ít nhất là thanh khoản của từng nhóm tổ chức tín dụng đã làm nảy sinh những biến tướng đưa tiền cho nhân viên đi gửi vào ngân hàng khác và ở đó chực chờ là các con thiên nga đen như Huyền Như.
Chu Quỳnh (TH)